Báo cáo Khoa học khủng hoảng tài chính toàn cầu: Cái nhìn toàn cảnh, khuyến nghị giải pháp cho thị trường chứng khoán Việt Nam

Tài liệu Báo cáo Khoa học khủng hoảng tài chính toàn cầu: Cái nhìn toàn cảnh, khuyến nghị giải pháp cho thị trường chứng khoán Việt Nam: KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU : CÁI NHÌN TOÀN CẢNH, KHUYẾN NGHỊ GIẢI PHÁP CHO TTCK VIỆT NAM Thạc sĩ Kinh tế Nguyễn Ngọc Cảnh Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế, Uỷ Ban Chứng khoán Nhà nước Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2010 bắt nguồn từ khủng hoảng thanh khoản trong hệ thống ngân hàng Mỹ. Cuộc khủng hoảng này đã dẫn đến sự đổ vỡ của hàng loạt định chế tài chính lớn, nhiều tổ chức tín dụng bị quốc hữu hoá và sự sụt giảm trên thị trường chứng khoán trên khắp thế giới. Nhiều nhà kinh tế coi cuộc khủng hoảng này là một cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất kể từ Đại khủng hoảng những năm 30 thế kỷ trước. Cuộc khủng hoảng này đã làm tiêu tan một lượng tài sản lớn ước tính có gía trị hàng ngàn tỉ USD. Để đối phó với nguy cơ nền kinh tế thế giới lâm vào vòng xoáy giảm phát, Cục dự trữ Liên bang Mỹ cùng với các ngân hàng trung ương trên thế giới đã tăng cung tiền cho nền kinh tế nhằm ngăn chặn việc suy giảm tiêu thụ trên toàn cầu. Bên cạnh đó, Chính phủ các n...

pdf17 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1020 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo cáo Khoa học khủng hoảng tài chính toàn cầu: Cái nhìn toàn cảnh, khuyến nghị giải pháp cho thị trường chứng khoán Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU : CÁI NHÌN TOÀN CẢNH, KHUYẾN NGHỊ GIẢI PHÁP CHO TTCK VIỆT NAM Thạc sĩ Kinh tế Nguyễn Ngọc Cảnh Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế, Uỷ Ban Chứng khoán Nhà nước Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2010 bắt nguồn từ khủng hoảng thanh khoản trong hệ thống ngân hàng Mỹ. Cuộc khủng hoảng này đã dẫn đến sự đổ vỡ của hàng loạt định chế tài chính lớn, nhiều tổ chức tín dụng bị quốc hữu hoá và sự sụt giảm trên thị trường chứng khoán trên khắp thế giới. Nhiều nhà kinh tế coi cuộc khủng hoảng này là một cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất kể từ Đại khủng hoảng những năm 30 thế kỷ trước. Cuộc khủng hoảng này đã làm tiêu tan một lượng tài sản lớn ước tính có gía trị hàng ngàn tỉ USD. Để đối phó với nguy cơ nền kinh tế thế giới lâm vào vòng xoáy giảm phát, Cục dự trữ Liên bang Mỹ cùng với các ngân hàng trung ương trên thế giới đã tăng cung tiền cho nền kinh tế nhằm ngăn chặn việc suy giảm tiêu thụ trên toàn cầu. Bên cạnh đó, Chính phủ các nước cũng có các gói kích cầu bằng cách cho vay và chi để bù đắp việc cắt giảm chi tiêu từ khối kinh tế tư nhân và hộ gia đình. Riêng Mỹ có tất cả 2 gói kích cầu có tổng trị giá là 1.000 tỉ USD trong năm 2008 và 2009. Cuộc khủng hoảng tài chính đã nhanh chóng dẫn tới hiện tượng đóng băng trên thị trường tín dụng, đẩy hệ thống tài chính thế giới tới bờ vực phá sản. Trước tình thế này, Cục dự trữ Liên bang Mỹ và Ngân hàng Trung ương Châu Âu, cùng nhiều ngân hàng trung ương khác, đã có những phản ứng kịp thời mang tính chất gay cấn. Trong Quý IV năm 2008, các ngân hàng trung ương đã mua lại tổng cộng là 2.500 tỉ USD nợ công và các tài sản xấu từ các ngân hàng. Đây được coi là một trong những động thái mạnh mẽ nhất trong chính sách tiền tệ từ trước tới nay. Chính phủ các nước Châu Âu và Mỹ cũng đã tăng vốn điều lệ của hệ thống ngân hàng lên 1.500 tỉ USD dưới hình thức mua cổ phiếu ưu đãi tại các ngân hàng chính. Chính phủ các nước cũng cứu trợ các doanh nghiệp trong nhiều lĩnh vực khác nhau, đẩy nợ công lên cao. Cho đến nay, các cơ quan Chính phủ Mỹ đã chi hoặc cam kết hàng ngàn tỉ USD dưới dạng tín dụng, mua tài sản, bảo đảm hay chi trực tiếp. Tổng giá trị cam kết là 11.000 tỉ USD, giải ngân thực tế là 3.000 tỉ USD, cụ thể : - Chương trình cứu trợ đối với các tài sản xấu : tổng giá trị cam kết của Chính phủ Mỹ là 700 tỉ USD, đã đầu tư thực tế là 300 tỉ USD; - Các nỗ lực cứu trợ các ngân hàng của Cục dự trữ Liên bang Mỹ : tổng giá trị cam kết là 6.400 tỉ USD, đầu tư thực tế là 1.500 tỉ USD; - Các chương trình kích cầu : tổng giá trị cam kết là 1.200 tỉ USD, giải ngân thực tế là 577,8 tỉ USD; - Chương trình hỗ trợ Tập đoàn bảo hiểm AIG : tổng giá trị cam kết là 182 tỉ USD, giải ngân thực tế là 127,4 tỉ USD; - Chi cho việc thôn tính các ngân hàng gặp khó khăn của Công ty bảo hiểm tiền gửi Liên bang : đã chi 45,4 tỉ USD; - Các sáng kiến cứu trợ ngành tài chính khác : tổng giá trị cam kết là 1.700 tỉ USD, giải ngân thực tế là 366,4 tỉ USD; - Các sáng kiến ứu trợ ngành bất động sản khác : tổng giá trị cam kết là 745 tỉ USD, giải ngân thực tế là 130,6 tỉ USD; Kết quả từ các gói cứu trợ là nền kinh tế Mỹ nói riêng, và nền kinh tế thế giới nói chung đã bắt đầu có những dấu hiệu khởi sắc từ năm 2009, và xu hướng này ngày càng rõ hơn trong năm 2010. Theo phân tích tình hình thực tế hiện nay, cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế đã cơ bản vượt qua thời kỳ xấu nhất, kinh tế thế giới bắt đầu đi lên từ đáy, nhân tố chủ yếu chính là chỉ số khủng hoảng (tỉ lệ bất ổn) đã giảm xuống dưới 30%. Theo báo cáo "Tình hình và triển vọng kinh tế thế giới năm 2010" do Liên Hợp Quốc ban bố thì dự tính năm 2010, tỉ lệ tăng trưởng kinh tế thế giới chỉ là 2,4%. Tăng trưởng âm của năm 2009 chuyển thành tăng trưởng thực sự vào năm 2010 là một chuyển biến tích cực quan trọng. Nhưng theo định nghĩa truyền thống của Tổ chức Quỹ Tiền tệ Quốc tế, tỉ lệ tăng trưởng kinh tế thế giới ở mức dưới 2,5% được định nghĩa là suy thoái kinh tế thế giới, vì thế năm 2010, kinh tế thế giới vẫn nằm trong suy thoái hoặc bên bờ của suy thoái. Trong nghịch cảnh kinh tế thế giới như vậy, theo dự tính, năm 2010, các nước đang phát triển được coi là một chỉnh thể sẽ tăng tốc là 5,1%, trong đó tỉ lệ tăng trưởng kinh tế của nhóm kinh tế mới nổi là 6%, còn các nước phát triển chỉ khoảng 1,75% (dự báo của Tổ chức Quỹ Tiền tệ Quốc tế là 1,3%). HỆ THỐNG TÀI CHÍNH THẾ GIỚI HẬU KHỦNG HOẢNG Bên cạnh những chính sách đối phó mang tính chất tức thời kể trên, Chính phủ các nước cũng đã có những nỗ lực không nhỏ trong việc cải cách nền kinh tế, đặc biệt là hệ thống tài chính vốn được chỉ tr­ích nhiều nhất trong cuộc khủng hoảng tài chính này. Vào tháng 6 năm 2009, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã đưa ra một serie chính sách cải cách, bao gồm bảo vệ người tiêu dùng, quản lý mức thù lao cho lãnh đạo cao cấp doanh nghiệp, yêu cầu cao hơn về vốn đối với ngân hàng, tăng cường quản lý hệ thống tổ chức tín dụng phi ngân hàng và các loại chứng khoán, tài sản phái sinh, tăng quyền lực cho Cục dự trữ Liên bang Mỹ. Ngày 21/7, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã chính thức ký thành luật dự thảo cải cách ngành tài chính sâu rộng nhất kể từ thời kỳ Đại suy thoái những năm 1930, nhằm bảo vệ người tiêu dùng và đảm bảo sự ổn định kinh tế tốt hơn. Đạo luật mới dài 2.323 trang, mang tên "Bảo vệ người tiêu dùng và cải cách Phố Wall Dodd-Frank", trong đó Dodd-Frank là từ ghép tên của Thượng nghị sĩ Christopher Dodd và Hạ nghị sĩ Barney Frank, hai nhà tài trợ chính của đạo luật này trong Quốc hội Mỹ. Dodd-Frank được xem là một bước ngoặt mang tính lịch sử, khi đánh giá lại toàn bộ các quy định trong hệ thống tài chính Mỹ. Đây là dự luật cải cách mạnh mẽ và sâu rộng nhất kể từ thời kỳ Đại suy thoái những năm 1930 tới nay. Đạo luật Dodd-Frank sẽ mang lại cho Chính phủ Mỹ những quyền lực mới để ngăn chặn các công ty có khả năng đe doạ tới nền kinh tế, thành lập một cơ quan mới bảo vệ người tiêu dùng và giám sát chặt chẽ hơn thị trường tài chính. Đạo luật đưa ra một loạt biện pháp cải cách thị trường Phố Wall, ngăn chặn nguy cơ các thể chế tài chính lớn sụp đổ gây ảnh hưởng tới kinh tế Mỹ, kiểm soát các khoản tiền thưởng và ngăn chặn những khoản đầu tư rủi ro. Đồng thời, tạo ra một cơ chế bảo vệ người gửi tiền tại các ngân hàng dưới sự giám sát của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED). Cụ thể, Dodd-Frank sẽ áp dụng các khoản phí và hạn chế mới đối với các ngân hàng lớn nhất Mỹ, đặt ra những giới hạn đối với thị trường phái sinh trị giá 450.000 tỉ USD cũng như bảo vệ người tiêu dùng trước các tài sản thế chấp và thẻ tín dụng. Các quy định mới về tổ chức xếp hạng tín dụng, ngân hàng, quỹ đầu tư, và lĩnh vực thế chấp trị giá 450.000 tỉ USD có thể diễn ra trong nhiều năm. Tuy nhiên, đạo luật yêu cầu các nhà điều hành nhanh chóng áp dụng các điều khoản mới trong vòng 6 đến 18 tháng. Ví dụ như Ủy ban Chứng khoán Mỹ (SEC) dự kiến sẽ chịu trách nhiệm thực thi 95 điều khoản và FED thực hiện 54 điều khoản. Đạo luật yêu cầu hội đồng giám sát bình ổn tài chính hợp tác cùng với FED trong việc yêu cầu các ngân hàng "có nhiều khả năng phá sản" áp dụng các giới hạn nghiêm ngặt về vốn và đòn bẩy; hướng dẫn Chính phủ tổ chức các cuộc kiểm toán bất thường và liên tục đối với các chương trình tín dụng của FED; và thành lập "Quy tắc Volcker" để giới hạn các hoạt động giao dịch tự doanh của các ngân hàng lớn. Bên cạnh đó, Dodd-Frank cũng buộc các ngân hàng lớn dần rút hầu hết vốn ra khỏi các quỹ đầu cơ và tư nhân trong vài năm, thành lập hệ thống mới để xoá bỏ các ngân hàng khổng lồ bị thua lỗ tương tự như Lehman, từ đó sự phá sản của các ngân hàng này không đẩy các thị trường vào vòng xoáy chết. Như vậy, với những cải cách sâu rộng trong lĩnh vực tài chính - chứng khoán nêu trên, hoạt động kinh doanh của các ngân hàng và công ty chứng khoán sẽ bị kiểm soát chặt chẽ hơn trên thị trường chứng khoán Mỹ, việc sử dụng các công cụ tài chính, đặc biệt là đòn bảy tài chính sẽ gặp phải nhiều hạn chế, cũng như các tổ chức tài chính phải tr­ích nhiều hơn cho các quỹ dự phòng rủi ro. VIỆT NAM VÀ CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU Phản ứng của Việt Nam Trong một thế giới toàn cầu hoá như ngày nay, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt nguồn từ Mỹ đã tạo ra những "sang chấn" đáng kể đổi với nền kinh tế vĩ mô của Việt Nam. Các tác động cụ thể của cuộc khủng hoảng này có thể bao gồm : Nhu cầu đối với sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam bị thu hẹp (hơn 50% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam là sang thị trường Mỹ, EU và Nhật Bản) : Đến hết quý 1-2009, khi so với cùng kỳ, xuất khẩu chỉ tăng 2,4% (nếu loại trừ 2,3 tỉ đô la tái xuất vàng thì kim ngạch xuất khẩu giảm tới 15%). Nguồn vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp suy giảm trên phạm vi toàn cầu, và Việt Nam không phải là một ngoại lệ : trong ba tháng đầu 2009 Việt Nam chỉ thu được 2,1 tỉ USD đầu tư nước ngoài, giảm 70% so với cùng kỳ năm 2008, trong khi nguồn vốn FDI cam kết đạt 6 tỉ USD, tương đương 60% số vốn của cùng kỳ năm 2008. Thực tế, nguồn vốn FDI đăng ký sụt giảm ngay từ tháng 1, chỉ đạt 185 triệu USD. Sang tháng 2, tổng vốn tăng mạnh do có 3 dự án lớn được cấp phép tại Bà Rịa - Vũng Tàu, và một dự án tăng vốn từ 300 triệu USD lên 4,1 tỉ USD. Các dự án khác tăng vốn rất ít, và trong 3 tháng, chỉ có 34 lượt dự án xin tăng. Theo ông Nguyễn Hoàng Minh, phó giám đốc chi nhánh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, trong năm 2009, lượng kiều hối chuyển về Việt Nam qua hệ thống ngân hàng và các công ty chuyển tiền là 3,2 tỉ đô la, giảm 20% so với mức của năm 2008. Lượng kiều hối trong năm 2009 bị giảm là điều không thể tránh khỏi, một phần do nạn thất nghiệp tại những quốc gia có cộng đồng người Việt sinh sống. Theo thẩm định của giới chuyên gia, thì tổng lượng kiều hối chuyển về Việt Nam trong 2009, theo những con đường khác nhau có thể giao động từ 6 đến 6,8 tỉ đô la, trong khi đó, lượng kiều hối trong năm 2008 là 7,2 tỉ đô la. Những yếu tố trên sẽ làm cán cân thanh toán trở nên xấu đi, đe doạ sự ổn định của thị trường tài chính nói riêng và nền kinh tế nói chung. Để đối phó với tác động của cuộc khủng hoảng, Đảng và Chính phủ đã kịp thời đề ra các giải pháp quyết liệt và có hiệu quả nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu, kích cầu đầu tư tiêu dùng, bảo đảm an sinh xã hội, phấn đấu mức tăng trưởng kinh tế năm 2009 ở mức 5-6%. Để đảm bảo mục tiêu trên, Việt Nam đã triển khai một loạt các chính sách tài chính tiền tệ, các giải pháp kích cầu đầu tư tiêu dùng. Thứ nhất, trong lĩnh vực tiền tệ, Việt Nam đã áp dụng chính sách tiền tệ linh hoạt, từng bước cắt giảm lãi suất cơ bản từ 14% xuống 7%, giảm dự trữ bắt buộc từ 5% xuống 1%, duy trì sự ổn định của tỉ giá đồng Việt Nam trên thị trường ngoại hối. Thứ hai, trong lĩnh vực tài chính, Chính phủ đã thực hiện các giải pháp giãn và cắt giảm thuế như giảm thuế thu nhập doanh nghiệp từ 28% xuống 25%, giảm 30% thuế đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, giảm và miễn thuế đối với các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động, giãn việc áp dụng thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập chứng khoán. Ngoài ra, Chính phủ đã giảm thuế xuất khẩu, tăng thuế nhập khẩu đối với các mặt hàng tiêu dùng, giảm thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu và đầu vào sản xuất. Thứ ba, Chính phủ đã triển khai gói kích cầu trị giá 17 nghìn tỉ đồng (tương đương 1 tỉ USD) dưới hình thức hỗ trợ lãi suất 4%/năm. Sau gần 2 tháng thực hiện đến nay đã có hơn 200 nghìn tỉ đồng (tương đương 12 tỉ USD) tín dụng đã được giải ngân từ ngân hàng với sự hỗ trợ của gói kích cầu này. Theo báo cáo của Chính phủ, kết quả tổng hợp của gói kích cầu là góp phần tích cực vào tốc độ tăng trưởng kinh tế, quý sau cao hơn trước, quý 4 năm 2009 GDP tăng 6,8% và cả năm đạt mục tiêu 5-5,2% và cơ bản thực hiện được mục tiêu ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý và bền vững, chỉ số giá tiêu dùng ở mức 7%; bội chi ngân sách là 6,9%... là thành tích lớn trong bối cảnh kinh tế thế giới diễn biến phức tạp. Tuy vậy, kim ngạch xuất khẩu vẫn giảm 11,4%, và vốn FDI giảm 11,2% so với năm 2008 trong khi tổng vốn đầu tư tăng 14,4% chủ yếu nhờ vốn đầu tư nhà nước tăng tới tới 45,5%. Nới lỏng chính sách tài khoá đã dẫn tới hệ quả trực tiếp là bội chi ngân sách lên đến 6,9% GDP chưa tính đến các khoản chi từ nguồn trái phiếu chính phủ, các khoản Chính phủ vay về cho doanh nghiệp vay lại. Nợ chính phủ cũng tăng mạnh từ 36,5% GDP năm 2008 lên đến 40% GDP năm 2009 và năm 2010 dự kiến khoảng 44% GDP. Theo công bố từ nguồn tin Bộ Tài chính thị nợ nước ngoài cho đến thời điểm hiện nay của Việt nam là 29% GDP. Thị trường chứng khoán khởi sắc Những dấu hiệu lạc quan của nền kinh tế, kèm theo hiệu ứng của gói kích cầu, đã giúp năm 2009 để lại những dấu ấn quan trọng trong lịch sử 9 năm phát triển của thị trường chứng khoán. Những kỷ lục mới, cột mốc quan trọng đã lần lượt được thiết lập : phiên giao dịch ngày 24-2, VN-Index đã rơi xuống mức đáy 235,5 điểm, HNX-Index lùi về dưới mốc 100 điểm khi xuống mức thấp nhất trong lịch sử là 78,06 điểm. Tuy nhiên, bước sang tháng 3-2009, các nhà đầu tư (NĐT) đã lấy lại được niềm tin khi TTCK có một tháng tăng điểm ấn tượng nhất kể từ tháng 11-2008 : VN-Index không chỉ khởi sắc về điểm số mà khối lượng giao dịch cũng tăng mạnh. Tính đến hết ngày 30-6, VN-Index đã tăng 132,67 điểm (42,03%), HNX-Index tăng 44,57 điểm (42,66%) so với thời điểm kết thúc năm 2008. Đây là một bước tiến dài của TTCK trong nước khi VN-Index đã đạt tốc độ tăng lớn thứ 8 trong tổng số 89 chỉ số chứng khoán quan trọng trên thế giới khi tăng được 46% so với thời điểm đầu năm 2009. Kỷ lục về khối lượng giao dịch tại sàn HOSE được thiết lập vào ngày 10-6 với 101.774.520 cổ phiếu và chứng chỉ quỹ được chuyển nhượng, con số tương tự tại HNX là 56.522.170 cổ phiếu. Từ tháng 8 đến tháng 10, TTCK lại tiếp tục đợt tăng giá thứ hai đầy mạnh mẽ với nhiều kỷ lục về giá trị và khối lượng giao dịch kỷ lục được xác lập. Ngày 22-10, TTCK vươn tới đỉnh điểm của đợt sóng thứ 2 là mức 624,10 điểm. Đây cũng là mức cao nhất của thị trường sau 394 phiên giao dịch kể từ ngày 14-3-2008. Trong khoảng thời gian này, thanh khoản liên tục đạt kỷ lục trên cả hai sàn. Đối với sàn HOSE, phiên giao dịch ngày 23-10 được coi là "siêu thanh khoản" khi lập kỷ lục cao nhất từ trước đến nay cả về khối lượng và giá trị giao dịch với hơn 136 triệu đơn vị được chuyển nhượng, tương ứng giá trị giao dịch lên đến 6,414 nghìn tỉ đồng; sàn HNX đạt kỷ lục với hơn 67,23 triệu cổ phiếu được chuyển nhượng cùng 3,04 nghìn tỉ đồng được giải ngân. TTCK tăng trưởng mạnh mẽ, nằm ngoài dự đoán của giới chuyên gia và trở thành điểm sáng ấn tượng khi có tốc độ phục hồi nhanh nhất châu Á. Một ấn tượng khác của TTCK là sự phát triển mạnh mẽ về quy mô. Tính đến tháng hết tháng 07-2010, đã có 571 cổ phiếu và chứng chỉ quỹ được niêm yết. Tổng giá trị vốn hoá thị trường cổ phiếu lên tới hơn 694 nghìn tỉ đồng (hơn 36 tỉ USD), tương đương 40% GDP của năm 2009. Năm 2009 cũng đánh dấu sự lên sàn của hàng loạt doanh nghiệp (DN) lớn như Eximbank, Bảo Việt, Vietcombank và Vietinbank... Sự góp mặt của các "đại gia" này đồng nghĩa với việc nguồn cung trên thị trường ngày càng đa dạng hơn. Trong đó, Vietcombank giao dịch 112,3 triệu cổ phiếu, là DN có vốn hoá lớn nhất thị trường, với trên 56.000 tỉ đồng, gấp hơn 2 lần "quán quân" trước đó là ACB (28.000 tỉ đồng). Trong khi đó, Bảo Việt (BVH) niêm yết toàn bộ 573 triệu cổ phiếu và Vietinbank có 121,2 triệu cổ phiếu. Các "đại gia" này đều chào sàn thành công, đáp ứng được mong đợi của NĐT. Giá cổ phiếu các doanh nghiệp bảo hiểm và ngân hàng nhờ vậy đã tăng trong một thời gian khá dài và trở thành những cổ phiếu "blue chip" trên thị trường. Những lo ngại từ hậu khủng hoảng Bước sang năm 2010, nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều dấu hiệu phục hồi nhanh. Hầu hết các ngành, lĩnh vực thời gian qua đều đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn cùng kỳ năm trước, mặc dù phải liên tiếp đối mặt với nhiều thách thức mới nảy sinh từ trong và ngoài nước. Mặt được lớn nhất là các cân đối vĩ mô của nền kinh tế nhìn chung vẫn được duy trì tương đối ổn định. Sự ổn định tương đối này được đánh giá là chưa vững chắc, bởi vừa qua đã có lúc xảy ra những diễn biến chưa thật lành mạnh như lãi suất tín dụng tăng vọt, tỉ giá đồng đôla Mỹ lên xuống thất thường, gây khó khăn lớn cho sản xuất, kinh doanh.. Mặt được nổi trội nữa là toàn nền kinh tế đã và đang lấy lại đà tăng trưởng. Tiêu biểu là GDP quý II tăng 6,2-6,4%, tạo nên mức tăng trưởng kinh tế 6 tháng đạt khoảng 6,1% so với cùng kỳ năm trước. Công nghiệp được xem là mảng toả sáng trong bức tranh kinh tế 6 tháng đầu năm nay với mức tăng trưởng giá trị sản xuất toàn ngành 6 tháng qua ở mức 13,8% so với mức tăng 6,18% và 5,32% của cả năm 2008 và 2009, hay so với chỉ tiêu Quốc hội đề ra cho năm 2010 là tăng 12%. Công nghiệp đã và đang đóng vai trò quan trọng trong việc kiến tạo nên tốc độ tăng trưởng 15,7% của kim ngạch xuất khẩu 6 tháng qua, vượt gấp đôi so với mức tăng 6% mà Quốc hội đã đề ra cho năm 2010, và đặc biệt, nếu so với mức giảm 9,7% của kim ngạch xuất khẩu năm 2009. Điều chưa làm được đáng quan tâm nhất hiện nay là việc nâng cao hiệu quả đầu tư. Cụ thể là, thực hiện tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội 6 tháng qua đã được huy động đến mức cao nhất từ trước tới nay, bằng 43,5% GDP, mà tốc độ tăng trưởng kinh tế chỉ đạt khoảng 6,1% là hiệu quả rất thấp. Một nỗ lực khác cũng chưa mang lại kết quả như mong muốn là giảm nhập siêu. Trong khi xuất khẩu tăng 15,7% thì nhập khẩu tăng 29,4%. Hơn nữa, đã xuất hiện dấu hiệu chững lại của xuất khẩu, như trong tháng 6 vừa qua, do thị trường EU và một số thị trường khác đang gặp khó khăn. Trái với dự kiến về sự tăng trưởng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong năm 2010, nguồn vốn này đang có xu hướng giảm. Theo báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính đến ngày 20/7, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) giải ngân đạt 6,4 tỉ USD. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng vốn FDI giải ngân so với cùng kỳ năm ngoái đã giảm dần trong 3 tháng trở lại đây, từ mức tăng 7,1% trong tháng 4 xuống còn tăng 6% trong tháng 6, và tháng này chỉ còn tăng 1,6%. Hơn nữa, sự sụt giảm này đã thể hiện trong vài tháng gần đây, từ mức khoảng 1,5 tỉ USD trong tháng 5, giảm xuống còn trên 800 triệu USD trong tháng 6 và đến tháng này chỉ còn hơn nửa tỉ USD. Một trong các nguyên nhân khiến các chỉ số kinh tế vĩ mô nêu trên không mấy lạc quan là do các nước công nghiệp đang bắt đầu thực hiện chính sách tài khoá hà khắc nhất trong hơn 40 năm qua. Theo đó, các nước giàu sẽ giảm thâm hụt ngân sách khoảng 1,6% trong năm tới, cao hơn mức cắt giảm cao nhất mà Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế OECD thực hiện vào năm 1970, việc cắt giảm này sẽ làm GDP năm 2011 giảm 0,9%. Vấn đề đòn bẩy tại châu Á không trầm trọng như tại các nước phát triển do mức tiết kiệm tại châu Á cao hơn, chỉ có điều là khu vực này còn lệ thuộc nặng nề vào thị trường xuất khẩu sang các nước phát triển, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ trong bối cảnh chung của toàn Châu Á. Thị trường chứng khoán chịu sự tác động chung của khủng hoảng Sau khi phục hồi và đạt đỉnh điểm vào phiên giao dịch ngày 6/5 với Vn- index và Hn-index lần lượt là 549,25 điểm và 187,22 điểm, thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam bắt đầu xu hướng giảm và kết thúc quý II không mấy khả quan. Không dừng lại ở đó, TTCK đã trở về điểm xuất phát đầu năm ngay từ những ngày đầu tháng 7. Kết thúc phiên giao dịch ngày 30/6, chỉ số Vn-Index giảm 13 phiên liên tiếp và đóng cửa ở mốc 507,14 điểm, giảm 9,52 điểm so phiên giao dịch trước đó, tăng lần lượt 7,9 điểm và 12,37 điểm so với phiên giao dịch ngày 31/03 và ngày 31/12/2009; chỉ số Hn-index giảm sâu ngay và dừng lại ở mốc 158,81 điểm, giảm 2,52 điểm so với phiên giao dịch trước đó, giảm lần lượt 1,74 điểm và 9,36 điểm so với phiên giao dịch ngày 31/03 và ngày 31/12/2009; chỉ số UpCom-index đóng cửa tại mức 48,45 điểm, tăng 0,54 điểm so với phiên giao dịch trước đó và 3,53 điểm so với phiên giao dịch ngày 31/03, nhưng giảm 4,37 điểm so với phiên giao dịch ngày 31/12/2009. Thị trường chứng khoán Việt Nam suy yếu trong 6 tháng đầu năm có nhiều nguyên nhân khác nhau. Một trong các nguyên nhân cơ bản là tăng trưởng kinh tế trong năm 2010 đã không được như mong đợi, cùng với các yếu tố như đà tăng trưởng thu hút vốn đầu tư nước ngoài có xu hướng giảm, nhập siêu lại gia tăng trong khi xuất khẩu có giấu hiệu chững lại như đã nêu ở trên. Sự thắt chặt tín dụng hạn chế cho vay từ hệ thống tín dụng Ngân hàng đã đẩy các doanh nghiệp Việt nam huy động vốn thông qua TTCK ngày càng nhiều dẫn đến việc tăng cung đột biến do các doanh nghiệp phát hành tăng vốn trên TTCK. Đồng thời nhằm đảm bảo nâng tỉ lệ vốn pháp định của các ngân hàng thương mại theo Nghị định 141/NĐ-CP 2006 lên 3000 tỉ VND thông qua việc chào bán chứng khoán ra công chúng, chào bán riêng lẻ, chia cổ tức bằng cổ phiếu và chia cổ phiếu thưởng cho các cổ đông hiện hữu, số lượng huy động vốn của các ngân hang là rất lớn so với khả năng hấp thụ của thị trường trong bối cảnh khủng hoảng tài chính hiện tại. Một nguyên nhân khác là thị trường chứng khoán thế giới tiếp tục lao dốc và kết thúc quý II một cách ảm đạm. Trong phiên giao dịch ngày 30/6, làn sóng bán tháo trên TTCK thế giới tiếp tục dâng cao do kinh tế thế giới chưa kịp phục hồi sau khủng hoảng đã phải đối phó với thâm hụt nợ công tại châu Âu, các biện pháp của Chính phủ Trung Quốc trong việc kiềm chế bong bóng tài sản và nâng giá đồng nhân dân tệ, đặc biệt là nguy cơ thừa hàng sau những đợt IPO liên tiếp trên TTCK Trung Quốc đang buộc các nhà đầu tư phải cân nhắc rút bớt tiền ra khỏi các công ty khác và tác động đến giá cổ phiếu trên toàn thị trường. Nhận định và kiến nghị Trái ngược với sự phấn khởi ban đầu khi các dấu hiệu phục hồi kinh tế thế giới ngày một rõ ràng hơn, tình hình kinh tế, đặc biệt là các diễn biến trên thị trường chứng khoán buộc chúng ta phải có đánh giá chính xác và đưa ra các quyết sách kịp thời. Đây chính là những thách thức mà người ta gọi là những chính sách kinh tế thời hậu khủng hoảng. Như đã phân tích ở trên, khủng hoảng tài chính lớn nhất kể từ khi Thế chiến thứ hai kết thúc đã thực sự làm thay đổi trật tự kinh tế thế giới. Trước hết đó là sự đánh mất vai trò lãnh đạo duy nhất của Mỹ, cũng như sự thống trị của đồng Dollar Mỹ trong nền kinh tế thế giới. Thay vào đó là sự lớn mạnh của các tổ chức tài chính quốc tế, đặc biệt là Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Mặc dù tại các tổ chức này, Mỹ vẫn là nước có quyền biểu quyết lớn nhất, nhưng uy tín cũng như tiếng nói của họ đã sụt giảm sau sự sụp đổ của các định chế tài chính lớn trên Wall Street. Hiện tại, các nước thuộc nhóm BRICs (bao gồm Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc) đang đòi xem xét lại cơ cấu đóng góp trong IMF, đặc biệt là Trung Quốc, để có thêm quyền biểu quyết tại tổ chức này. Một trong những thay đổi nổi bật nữa, đó là sự thay đổi quan điểm về những cái gọi là "chứng khoán không rủi ro" (tức trái phiếu chính phủ của các nước công nghiệp phát triển hay của các tổ chức phát hành lớn, trong trường hợp này ví dụ điển hình là trái phiếu chính phủ Hy Lạp), các định chế tài chính "quá lớn để sụp đổ" (ví dụ như trường hợp của AIG), đặc biệt là sự suy giảm niềm tin vào các tổ chức định mức tín nhiệm hàng đầu thế giới (ví dụ điển hình là các tổ chức này, bao gồm Moody's, Standard & Poor's và Fitch Ratings vẫn định mức xếp hạng trên A đối với cổ phiếu của Lehman Brothers và AIG cho đến khi thị trường chứng khoán sụp đổ vào tháng 9 năm 2008). Những biến đổi trên cùng với việc thắt chặt các quy định trên thị trường chứng khoán Mỹ và Châu Âu sẽ làm giảm sự hấp dẫn của các thị trường chứng khoán truyền thống này, vốn thu hút đến 90% nguồn vốn đầu tư toàn cầu. Thay vào đó, sự chú ý của các nhà đầu tư sẽ chuyển sang thị trường chứng khoán của các nền kinh tế mới nổi chiếm tỉ trọng đáng kể trong nền kinh tế cũng như thương mại thế giới, nhưng thu hút chưa đến 10% nguồn vốn đầu tư gián tiếp. Theo dự đoán của Trung tâm nghiên cứu BRICs Nhật Bản, trong khoảng thời gian từ năm 2005-2050, mô hình kinh tế tập đoàn 7 nước phương Tây tính bằng đồng USD sẽ mở rộng 2,5 lần so với hiện tại, BRICs sẽ mở rộng tới 20 lần, còn VISTA (là nhóm 5 nước triển vọng là Việt Nam, Indonesia, Nam Phi, Thổ Nhĩ Kỳ và Argentina) có khả năng sẽ mở rộng tới 28 lần. Điều này tuy chỉ là dự đoán nhưng mặt nào đó đã phản ánh xu thế biến đổi phát triển kinh tế nam bắc trong tương lai. Hội nghị Thượng đỉnh G20 ở Pittsburgh- Mỹ đã làm suy yếu vai trò của nhóm 8 nước. G20 sẽ bao gồm nhóm 10 nước kinh tế mới nổi được coi là "Diễn đàn hợp tác kinh tế quốc tế quan trọng nhất" và "Nhóm điều chỉnh mới về kinh tế thế giới", đánh dấu ba khu vực chủ soái về kinh tế thế giới là Mỹ, Nhật, châu Âu đã không còn độc quyền trong giải quyết vấn đề lớn mang tính toàn cầu, đánh dấu tầm ảnh hưởng ngày càng lớn của nhóm kinh tế lớn mới nổi, nâng cao địa vị và mở rộng tiếng nói trong hệ thống kinh tế toàn cầu, đánh dấu sự biến đổi mới của cục diện kinh tế thế giới. Tuy nhiên, việc chuyển dịch thị trường đầu tư từ các nước phát triển sang nhóm các nước có nền kinh tế mới nổi không đồng nghĩa với việc tất cả các nước trong nhóm nền kinh tế mới nổi đều được hưởng như nhau, đặc biệt điều này có ý nghĩa quan trọng đối với Việt Nam, vốn chưa được coi là nước có nền kinh tế mới nổi, bởi mới chỉ thoát khỏi danh sách các nước nghèo trong năm 2008. Theo nhận định của nhiều nhà phân tích, thì chỉ những nước có tiềm lực lớn mới thu hút được dòng đầu tư chuyển hướng này từ các nước phát triển, tức Trung Quốc sẽ là nước được hưởng lợi nhiều nhất, Ấn Độ và Brazil sẽ được hưởng lợi ở mức thấp hơn, còn lợi ích đối với Nga sẽ ở mức khiêm tốn. Đối với các nước đang phát triển khác, trong đó có Việt Nam, dòng vốn đầu tư này sẽ không có dấu hiệu nổi bật. Thay vào đó, Việt Nam có thể trông đợi dòng vốn đầu tư từ các nhà đầu tư đến từ các nước trong khu vực như Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia và thậm chí cả Trung Quốc. Để thực sự thu hút được dòng vốn đầu tư trên vào thị trường chứng khoán, Việt Nam cần phải có những nỗ lực đáng kể trong việc nâng cấp hạ tầng cơ sở và cải thiện môi trường kinh doanh chứng khoán, theo các định hướng sau : – Phát triển thị trường chứng khoán phải dựa trên chuẩn mực chung của thị trường và các thông lệ quốc tế tốt nhất, phù hợp với điều kiện thực tế và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tích cực hội nhập với thị trường tài chính khu vực và quốc tế. – Phát triển TTCK đồng bộ, toàn diện, hoạt động hiệu quả, vận hành an toàn, lành mạnh, vừa góp phần huy động vốn cho đầu tư phát triển của xã hội vừa tạo ra những cơ hội đầu tư sinh lợi, góp phần nâng cao mức sống và an sinh xã hội. – Phát triển TTCK nhiều cấp độ, bảo đảm các chứng khoán được tổ chức giao dịch theo nguyên tắc thị trường, có sự quản lý, giám sát của Nhà nước; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp và có chính sách khuyến khích các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán. – Đa dạng hoá các sản phẩm, nghiệp vụ của thị trường, đảm bảo cho các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán hoạt động an toàn, hiệu quả dựa trên nền tảng quản trị rủi ro và phù hợp với các chuẩn mực chung và thông lệ quốc tế. Từng bước tái cơ cấu hệ thống các trung gian thị trường trên nguyên tắc không gây xáo trộn lớn và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên thị trường. – Phát triển TTCK theo hướng gắn kết với việc cải cách, sắp xếp khu vực DNNN và tạo động lực cho các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế huy động được các nguồn vốn đầu tư trung và dài hạn cho đầu tư phát triển. – Phát triển TTCK trong mối tương quan với việc phát triển thị trường tiền tệ, thị trường bảo hiểm, nhằm tạo ra một hệ thống thị trường tài chính thống nhất, đồng bộ có sự quản lý, giám sát của nhà nước. Hoạt động quản lý, giám sát, điều hành và phát triển của các cơ quan quản lý nhà nước phải thống nhất về mục tiêu, mục đích, định hướng và giải pháp thực hiện. – Chủ động hội nhập thị trường tài chính quốc tế, nâng cao khả năng cạnh tranh, từng bước thu hẹp về khoảng cách phát triển giữa TTCK Việt Nam so với các thị trường khác trong khu vực và trên thế giới. Các mục tiêu cụ thể Mục tiêu thứ nhất : Tăng quy mô, củng cố tính thanh khoản cho thị trường chứng khoán, phấn đấu đưa tổng giá trị vốn hoá thị trường cổ phiếu đạt từ 80% đến 110% GDP vào năm 2020. Quy mô TTCK với mức vốn hoá thị trường so với GDP đạt từ 80%-110% GDP là hợp lý và có thể thực hiện được, phù hợp với mức thu nhập bình quân đầu người (GDP per capita) dự đoán ở thời điểm đó từ 2500-3000 USD. Quy mô này không cao hơn nhiều so với quy mô hiện tại của TTCK Thái Lan (70%-85% trong 5 năm gần nhất với thu nhập bình quân đầu người (GDP per capita) khoảng trên 4000 USD). Phát triển thị trường trái phiếu trở thành một kênh huy động và phân bổ vốn quan trọng cho phát triển kinh tế. Chú trọng đặc biệt phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ để huy động vốn cho Ngân sách nhà nước và đầu tư xây dựng cơ bản. Tổng mức vốn hoá thị trường trái phiếu hiện tại ước tính 13% GDP (khoảng 115.000 tỉ đồng) so với tiềm năng và nhu cầu huy động của ngân sách, tỉ trọng huy động vốn qua kênh phát hành trái phiếu còn rất hạn chế. Do đó, nhu cầu phát hành TPCP nhằm mục đích huy động vốn cho Ngân sách nhà nước để phát triển và đầu tư xây dựng cơ bản, cũng như để sử dụng thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô thông qua Trái phiếu Chính phủ sẽ ngày càng tăng trong thập kỷ sắp tới. Đây không chỉ là một kênh dẫn vốn hữu hiệu cho nền kinh tế mà còn tạo ra sự đa dạng hoá các công cụ đầu tư trên thị trường vốn, cho phép các nhà đầu tư có thêm lựa chọn đầu tư ít rủi ro hơn. Thị trường TPCP còn là nền tảng cơ bản cho sự phát triển của thị trường trái phiếu công ty thông qua việc cung cấp cơ sở định giá chuẩn tin cậy cho các công cụ khác nhờ vậy thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính nói chung. Ngoài ra, công cụ TPCP còn giúp cho NHNN phát huy vai trò điều hành chính sách tiền tệ thông qua nghiệp vụ thị trường mở, chiết khấu các công cụ nợ Chính phủ để điều chỉnh lượng tiền cung ứng. Củng cố một cách căn bản cầu đầu tư chứng khoán; phát triển và đa dạng hoá cơ sở nhà đầu tư nhằm kích cầu bền vững, phát triển hệ thống nhà đầu tư tổ chức1, khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài đầu tư dài hạn, tiếp tục phát triển hệ thống nhà đầu tư cá nhân Tạo lập các nền tảng căn bản để phát triển hệ thống cơ sở nhà đầu tư. Sự năng động của khối các nhà đầu tư cá nhân làm gia tăng tính thanh khoản của thị trường, khiến cho thị trường trở nên hấp dẫn hơn, thu hút thêm nhà đầu tư. Năng lực tài chính, kinh nghiệm chuyên môn của hệ thống nhà đầu tư tổ chức sẽ có vai trò dẫn dắt thị trường, giảm thiểu những biến động của thị trường, và góp phần cải thiện chất lượng quản trị doanh nghiệp tại các công ty niêm yết. Ngoài ra, một thị trường dựa trên nền tảng vững chắc tạo ra bởi hệ thống các nhà đầu tư có tổ chức trong nước chắc chắn sẽ trở nên linh hoạt hơn trước những cú sốc kinh tế và tài chính tạo ra bởi hiện tượng rút vốn ồ ạt. Những ảnh hưởng tiêu cực tạo ra bởi hiện tượng này sẽ nhanh chóng được kiểm soát, quản lý và dễ xử lý khi mà các nhà đầu tư trong nước hoàn toàn có đủ sức mạnh để thay thế các đối tác là các nhà đầu tư nước ngoài. Do đó, việc phát triển hệ thống các nhà đầu tư có tổ chức trong nước cũng là một vấn đề then chốt cần được lưu ý để có thể giúp hệ thống tài chính phòng vệ chống lại ảnh hưởng của các cú sốc bên ngoài. Khối nhà đầu tư nước ngoài cũng cần được quan tâm để có chính sách thu hút phù hợp theo hướng tập trung khuyến khích đầu tư dài hạn. Việc phát triển cơ sở nhà đầu tư không chỉ cần thiết đối với hoạt động của thị trường cổ phiếu, mà bảo đảm sự phát triển của thị trường TPCP. Mục tiêu thứ hai : Tăng tính hiệu quả của thị trường trên cơ sở tái cấu trúc TTCK, hiện đại hoá cơ sở hạ tầng, chuyên nghiệp hoá việc tổ chức và vận hành hạ tầng công nghệ thông tin Từng bước hiện đại hoá các SGDCK với các hệ thống giao dịch, giám sát và công bố thông tin hiện đại và có khả năng kết nối với các SGDCK quốc tế; đa dạng hoá phương thức giao dịch và sản phẩm thị trường đáp ứng nhu cầu của thị trường; Việc tái cấu trúc TTCK phải có bước đi thích hợp nhằm phát huy tối đa vai trò của 2 SGDCK đối với sự phát triển của thị trường trong giai đoạn trước mắt tiến tới thống nhất thị trường trong dài hạn, hướng tới thành lập "holding company" với mô hình một sở hai sàn trong tương lai. Kiện toàn và phát triển hệ thống lưu ký, đăng ký, thanh toán, bù trừ theo chuẩn mực quốc tế; hiện đại hoá hoạt động của Trung tâm Lưu ký Chứng khoán bảo đảm khả năng cung cấp các dịch vụ đăng ký, lưu ký các loại chứng khoán trên thị trường, từng bước tham gia và kết nối với TTLKCK quốc tế và trong khu vực. Một hệ thống đăng ký, lưu ký, thanh toán, bù trừ hiện đại là điều kiện tiên quyết, bảo đảm TTCK phát triển ổn định. Tuy nhiên, việc xây dựng được một hệ thống đăng ký, lưu ký, thanh toán, bù trừ vừa hiệu quả, vừa an toàn là một vấn đề cần thời gian. Trong thời gian tới, hệ thống này phải được hiện đại hoá trên cơ sở tự động hoá hoàn toàn các nghiệp vụ thực hiện tại TTLKCK theo những chuẩn mực quốc tế. Trên cơ sở hiện đại hoá hạ tầng công nghệ thông tin tại các SGDCK, TTLKCK, thúc đẩy việc hiện đại hoá công nghệ thông tin của các công ty chứng khoán và các tổ chức khác có liên quan, nhằm bảo đảm hạ tầng công nghệ thông tin đồng bộ, thống nhất, tương thích và an toàn. Hạ tầng công nghệ thông tin này phải được tổ chức vận hành, bảo hành, bảo trì, nâng cấp định kỳ một cách chuyên nghiệp, theo các chuẩn mực và thông lệ quốc tế tốt nhất. Mục tiêu thứ ba : Nâng cao sức cạnh tranh của các định chế trung gian thị trường và các tổ chức phụ trợ Sự phát triển về số lượng và mạng lưới hoạt động của các tổ chức kinh doanh chứng khoán, hình thành đội ngũ nhân viên hành nghề chuyên nghiệp và phát triển các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán, tuy chưa đa dạng và phong phú, nhưng là thành công của TTCK Việt Nam. Trong giai đoạn tới, hệ thống các tổ chức trung gian chứng khoán phải được củng cố, chuyên nghiệp hơn, có đủ năng lực tài chính, công nghệ và nguồn nhân lực, để cạnh tranh với các tổ chức kinh doanh chứng khoán trong khu vực và phù hợp với xu hướng chung trên thế giới : Xu hướng hoạt động theo mô hình đa năng : Hiện nay hầu hết các quốc gia trong khu vực đều đã chuyển sang quản lý và tổ chức các định chế các định chế trung gian theo mô hình đa năng. Điều này vừa giúp tiết kiệm chi phí, nguồn nhân lực, nâng cao sức cạnh tranh trong xu thế hội nhập và mở cửa thị trường dịch vụ tài chính quốc tế. Tuy nhiên, về lâu dài, nếu mô hình hoạt động đa năng phù hợp thông lệ quốc tế được phát triển cho cả khu vực dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm thì điều kiện tiên quyết là phải thiết lập cơ chế quản lý và cơ quan quản lý hoạt động theo mô hình đa năng (quản lý theo hoạt động kinh doanh, thay vì quản lý theo định chế như hiện tại). Mở rộng phạm vi hoạt động ra nước ngoài và cung cấp các dịch vụ ít rủi ro : Sự cải tổ các tổ chức kinh doanh chứng khoán sẽ thúc đẩy các tổ chức kinh doanh chứng khoán hạn chế các hoạt động kinh doanh đầu tư tiềm ẩn nhiều rủi ro, và các hoạt động kinh doanh truyền thống, tập trung vào các hoạt động cung ứng dịch vụ như môi giới, tư vấn tài chính doanh nghiệp, bảo lãnh phát hành (IPO, M&A). Mặt khác, các tổ chức này sẽ có xu hướng mở rộng phạm vi hoạt động tại các quốc gia đang phát triển, các nền kinh tế mới nổi. Đón trước làn sóng đầu tư từ các tổ chức kinh doanh chứng khoán hàng đầu thế giới, các nền kinh tế mới nổi sẽ tích cực nới lỏng các quy định về chứng khoán và thị trường chứng khoán để thu hút đầu tư nước ngoài cũng như chuyển giao công nghệ. Củng cố hệ thống và khả năng quản trị rủi ro : Sau các cuộc khủng hoảng tài chính, việc quản trị rủi ro tại các định chế trung gian, đặc biệt đối với các sản phẩm tài chính phức hợp được đưa lên hàng đầu. Đi kèm với nghiệp vụ là cơ cấu tổ chức cũng có sự thay đổi, khi hoạt động giám sát tuân thủ được phân quyền và nhấn mạnh tới hoạt động giám sát chéo. Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là sự hội nhập nhanh chóng trong lĩnh vực tài chính theo cam kết WTO với các quốc gia trong khu vực, các tổ chức trung gian thị trường trong nước sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh rất khốc liệt từ phía các CTCK hàng đầu khu vực khi thị trường dịch vụ tài chính mở cửa hoàn toàn theo cam kết WTO. Mục tiêu thứ tư : Tăng cường năng lực quản lý, giám sát, thanh tra, xử lý vi phạm và cưỡng chế thực thi của cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán. Để bảo đảm tính hiệu quả của bộ máy quản lý, giám sát, năng lực của cơ quan quản lý nhà nước về TTCK cần được củng cố trên cơ sở : – Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về TTCK theo hướng tăng cường vai trò quản lý, giám sát độc lập; cơ quan quản lý nhà nước về TTCK phải có chức năng lập quy, thanh tra, điều tra và cưỡng chế thực thi. – Củng cố năng lực quản lý, giám sát, thanh tra, và cưỡng chế thực thi của cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán trên cơ sở phân định rõ chức năng giám sát giữa Bộ Tài chính/UBCKNN với các bộ ngành, giữa các cấp giám sát khác nhau theo hướng chuyên biệt hoá; tăng cường vai trò giám sát của các tổ chức tự quản và tổ chức hiệp hội; thiết lập cơ chế chính thức phối kết hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong và ngoài nước trong lĩnh vực chứng khoán, ngân hàng, bảo hiểm nhằm bảo đảm hiệu quả hoạt động giám sát, cưỡng chế thực thi, bảo đảm an toàn cho hoạt động chứng khoán trên TTCK Việt Nam. – Hoàn thiện hệ thống công nghệ, cơ sở hạ tầng phục vụ hoạt động giám sát giữa các cấp giám sát khác nhau – Nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ giám sát trên cơ sở các chương trình, kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực cho hoạt động giám sát, cưỡng chế thực thi. Mục tiêu thứ năm : Chủ động hội nhập quốc tế, có lộ trình và phù hợp với trình độ phát triển của thị trường. Hội nhập quốc tế là một xu hướng tất yếu hiện nay và Việt Nam không phải là ngoại lệ nhằm nâng cao vai trò, vị thế, tăng khả năng cạnh tranh của TTCK Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Để có được những lợi ích lớn nhất từ hội nhập quốc tế và giảm thiểu được những rủi ro khi tham gia quá trình này, cơ quan quản lý cần chủ động xây dựng một chính sách hội nhập, lộ trình hội nhập có tính đến yếu tố trình độ phát triển của TTCK và nền kinh tế trong từng giai đoạn. Cụ thể : – Hoàn thiện khung pháp lý, cơ sở hạ tầng kỹ thuật, công nghệ cho quá trình hội nhập TTCK quốc tế mà trước mắt là trong khu vực ASEAN. – Xây dựng lộ trình tham gia kết nối với các SGDCK trong khu vực ASEAN. – Xây dựng cơ chế hợp tác, chia sẻ thông tin hiệu quả và cơ chế giám sát giao dịch xuyên biên giới với cơ quan quản lý thị trường nước đối tác. Mục tiêu thứ sáu : Tăng cường tính minh bạch và công bố thông tin của thị trường, áp dụng tốt mô hình quản trị công ty tốt đối với các tổ chức phát hành, Áp dụng chế độ kế toán kiểm toán theo thông lệ quốc tế. Thống nhất hoạt động công bố thông tin trên thị trường chứng khoán áp dụng cho các đối tượng tham gia trên thị trường chứng khoán, mức độ công bố thông tin có tính đến loại hình doanh nghiệp. Tăng cường các tiêu chuẩn công bố thông tin đối với tổ chức phát hành nhằm đảm bảo các cổ đông nhỏ lẻ đều được đảm bảo quyền bình đẳng nhận biết thông tin đầy đủ đối với doanh nghiệp mình tham gia đầu tư. Các nhà đầu tư có khả năng tiếp cận tới nguồn thông tin đầy đủ, được công bố một cách công khai minh bạch để có thể nắm rõ chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Áp dụng mô hình quản trị công ty tốt với mục tiêu phân định rõ ràng giữa sở hữu và điều hành, tránh các trường hợp doanh nghiệp đưa ra quyết định chiến lược của công ty mang mục đích các nhân ảnh hưởng chung đến các cổ đông nhỏ lẻ. Hướng tới một hệ thống báo cáo tài chính chung áp dụng cho các công ty đại chúng phù hợp với thông lệ quốc tế. Phân tích đánh giá khoảng cách giữa hệ thống tiêu chuẩn kế toán trong nước so sánh với hệ thống tiêu chuẩn kế toán quốc tế, từ đó có lộ trình áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế khi có đủ điều kiện./.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfBáo cáo khoa học KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU - CÁI NHÌN TOÀN CẢNH, KHUYẾN NGHỊ GIẢI PHÁP CHO TTCK VIỆT NAM.pdf
Tài liệu liên quan