Bài giảng Kinh tế học về chi phí giao dịch

Tài liệu Bài giảng Kinh tế học về chi phí giao dịch: Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Niên khóa 2005-2006 Tài chính Phát triển Bài đọc Chương 1 Kinh tế học về Chi phí Giao dịch Oliver E. Williamson 1 Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh KINH TẾ HỌC VỀ CHI PHÍ GIAO DỊCH Các hãng, các thị trường, và việc thiết lập hợp đồng quan hệ (relational contracting) là những thể chế kinh tế quan trọng. Chúng cũng là sản phẩm tiến hĩa của một chuỗi những đổi mới về tổ chức. Tuy nhiên, việc nghiên cứu các thể chế kinh tế của nền kinh tế thị trường chưa chiếm một vị trí quan trọng trong chương trình nghị sự về nghiên cứu khoa học xã hội. Việc xao lãng này được giải thích một phần bởi sự phức tạp vốn cĩ của các thể chế đĩ. Nhưng sự phức tạp cĩ thể và quả thật thường phục vụ như là một yếu tố thúc đẩy chứ khơng phải là yếu tố cản trở. Tình trạng ban sơ của kiến thức của chúng ta ít nhất cũng được giải thích với mức độ tương đương bởi sự miễn cưỡng trong việc thừa nhận rằn...

pdf29 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1041 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Bài giảng Kinh tế học về chi phí giao dịch, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Niên khóa 2005-2006 Tài chính Phát triển Bài đọc Chương 1 Kinh tế học về Chi phí Giao dịch Oliver E. Williamson 1 Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh KINH TẾ HỌC VỀ CHI PHÍ GIAO DỊCH Các hãng, các thị trường, và việc thiết lập hợp đồng quan hệ (relational contracting) là những thể chế kinh tế quan trọng. Chúng cũng là sản phẩm tiến hĩa của một chuỗi những đổi mới về tổ chức. Tuy nhiên, việc nghiên cứu các thể chế kinh tế của nền kinh tế thị trường chưa chiếm một vị trí quan trọng trong chương trình nghị sự về nghiên cứu khoa học xã hội. Việc xao lãng này được giải thích một phần bởi sự phức tạp vốn cĩ của các thể chế đĩ. Nhưng sự phức tạp cĩ thể và quả thật thường phục vụ như là một yếu tố thúc đẩy chứ khơng phải là yếu tố cản trở. Tình trạng ban sơ của kiến thức của chúng ta ít nhất cũng được giải thích với mức độ tương đương bởi sự miễn cưỡng trong việc thừa nhận rằng các chi tiết về tổ chức cĩ tầm quan trọng. Khái niệm phổ biến về cơng ty hiện đại như là một “hộp đen” là một mẫu mực về truyền thống nghiên cứu phi thể chế (hay tiền- phân tích vi mơ). Tuy nhiên, chỉ đơn thuần thừa nhận rằng các chi tiết về phân tích vi mơ của tổ chức cĩ tầm quan trọng thì chưa đủ. Cần phải xác định những đặc điểm về cấu trúc quan trọng nhất của các hình thức theo thị trường, theo hệ thống tầng nấc, tựa thị trường (quasi-market) của tổ chức và liên kết chúng với những kết quả kinh tế theo một cách thức cĩ tính hệ thống. Việc thiếu sự đồng ý về (hay những khái niệm sai lầm liên quan đến) những mục đích chính của tổ chức kinh tế cũng là một yếu tố gây trở ngại cho tiến bộ trong nghiên cứu. Để giải quyết những vấn đề đĩ, sẽ cần đến một chương của lịch sử tư duy kinh tế nào đĩ chưa được viết ra. Bất kể sự giải thích cuối cùng là gì, sự thật là hoạt động nghiên cứu về các thể chế kinh tế đã chứng kiến sự hồi sinh. Theo đĩ, trong khi việc nghiên cứu về kinh tế học về thể chế đã đạt điểm sa sút nhất trong thời kỳ ngay sau chiến tranh thế giới, thì bình tâm nhìn lại chúng ta sẽ lần ra được rằng việc phục hồi sự quan tâm về các thể chế và việc tái xác nhận tầm quan trọng về kinh tế của chúng đã xảy ra từ đầu thập niên 1960.1 Nội dung hoạt động bắt đầu xuất hiện vào đầu thập niên 1970.2 Đặc điểm chung của lĩnh vực nghiên cứu mới là khái niệm hãng (cơng ty) như là một hàm sản xuất bị thay thế (hay được nâng cao) bởi khái niệm hãng như là một cấu trúc quản trị (governance structure). Nghiên cứu thuộc loại Kinh tế học mới về thể chế (New Institutional Economics) đã đạt khối lượng cĩ tính quyết định trước năm 1975.3 Thập niên sau đĩ chứng kiến sự gia tăng theo cấp số nhân. Kinh tế học về chi phí giao dịch là một phần của truyền thống nghiên cứu Kinh tế học mới về thể chế. Mặc dù kinh tế học về chi phí giao dịch (và, tổng quát hơn, Kinh tế học mới về thể chế) áp dụng vào việc nghiên cứu tổ chức kinh tế thuộc tất cả các loại, nhưng cuốn sách này chủ yếu đặt trọng tâm vào các thể chế kinh tế của nền kinh tế thị trường, đặc biệt đề cập đến hãng, thị trường, và hợp đồng quan hệ (relational contracting). Trọng tâm đĩ trải qua trọn vẹn một khoảng biến thiên từ một đầu là sự trao đổi rời rạc trên thị trường đến đầu kia là tổ chức theo tầng nấc tập trung, với vơ số phương thức hỗn hợp hay trung gian ở khoảng giữa. Đặc trưng thay đổi của tổ chức kinh tế theo thời gian – trong phạm vi và giữa các thị trường và các hệ thống tầng nấc – là điều được quan tâm đặc biệt. Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển Bài đọc Chương 1 Kinh tế học về Chi phí Giao dịch Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh 2 Mặc dù những tính chất đáng lưu ý của các thị trường tân cổ điển, mà ở đĩ giá cả được dùng làm số liệu thống kê thỏa đáng, được thừa nhận rộng rãi – như Friedrich Hayek phát biểu, thị trường là “điều kỳ diệu” (1945, trang 525) – nhưng người ta cĩ các ý kiến khác nhau trong việc đánh giá các giao dịch được thu xếp trong phạm vi các phương thức tổ chức phi thị trường và tựa thị trường. Bộ máy quản lý hành chính và những hỗ trợ theo cách thức “luật rừng” (hay trật tự tư, private ordering) đi kèm với những giao dịch này cĩ tốt lắm thì cũng dẫn đến tình trạng rối ren. Một số học giả thậm chí từ chối bàn luận đến những giao dịch đĩ. Những học giả khác xem những sự lệch hướng này là bằng chứng cho thấy tình trạng tràn lan của “thất bại thị trường”. Cho đến rất gần đây, cách giải thích về kinh tế chủ yếu đối với những thơng lệ kinh doanh xa lạ hay khơng thơng thường vẫn dựa vào độc quyền.4 “[Nếu] một nhà kinh tế học phát hiện điều gì đĩ – một thơng lệ kinh doanh thuộc loại này hay loại khác – mà nhà kinh tế học khơng hiểu, thì nhà kinh tế học này sẽ tìm một cách giải thích dựa theo độc quyền” (Coase, 1972, trang 67). Điều khơng làm ai ngạc nhiên là các nhà khoa học xã hội khác xem cùng các thể chế này là cĩ hại cho xã hội. Việc cưỡng chế thi hành luật chống độc quyền từ năm 1945 đến hết năm 1970 thể hiện định hướng đĩ. Phải cơng nhận rằng, sự đánh giá tiêu cực về xã hội sau khi cân nhắc mọi mặt đơi khi được biện minh là xác đáng. Tuy thế, một sự hiểu biết sáng suốt và tinh tế hơn về các thể chế kinh tế của nền kinh tế thị trường đã và đang phát triển dần dần. Nhiều thơng lệ thực hành gây bối rối hay khác thường đã được làm nổi bật rõ rệt trong quá trình này. Cuốn sách này đưa ra nhận định rằng các thể chế kinh tế của nền kinh tế thị trường cĩ mục đích chính và tác dụng là tiết kiệm các chi phí giao dịch (giảm bớt các chi phí giao dịch). Tuy nhiên, khơng được lẫn lộn giữa một mục đích chính (trong số nhiều mục đích) và mục đích duy nhất. Các thể chế phức tạp thường đáp ứng nhiều mục tiêu khác nhau. Điều này cũng đúng ở đây. Tơi gán cho việc tiết kiệm chi phí giao dịch tầm quan trọng khác thường là cĩ ý đồ uốn nắn lại tình trạng xao lãng và đánh giá chưa đủ trước đây. Theo phán đốn của tơi, chúng ta khơng thể đạt được sự đánh giá đúng đắn về các thể chế kinh tế của nền kinh tế thị trường nếu chúng ta bác bỏ tầm quan trọng chính yếu của việc tiết kiệm chi phí giao dịch.5 Cần phải chú trọng nhiều hơn đến các đặc điểm về tổ chức (so với cơng nghệ) và các mục đích về hiệu quả (so với độc quyền). Chủ điểm này được lặp lại, với những biến thể khác nhau, trong suốt cuốn sách này. Tơi cĩ ý kiến rằng tồn bộ một dãy các đổi mới về tổ chức đánh dấu sự phát triển của các thể chế kinh tế của nền kinh tế thị trường trên thế giới trong 150 năm qua cần được đánh giá lại xét theo chi phí giao dịch. Phương pháp được đề xuất ở đây là định hướng hợp đồng (contracting orientation) và khẳng định rằng bất cứ vấn đề nào cĩ thể được giải thích một cách cĩ hệ thống như một vấn đề về thiết lập hợp đồng (contracting problem) đều cĩ thể được nghiên cứu, để đem lại kết quả tốt, xét về phương diện tiết kiệm chi phí giao dịch. Mọi quan hệ trao đổi hay giao dịch đều đủ tiêu chuẩn để cĩ thể được nghiên cứu xét theo việc tiết kiệm chi phí giao dịch. Nhiều vấn đề khác, mà lúc ban đầu cĩ vẻ khơng liên quan tới việc thiết lập hợp đồng, nhưng sau khi xem xét kỹ lưỡng, thì hĩa ra là cĩ tính chất thiết lập hợp đồng ngầm ẩn. (Vấn đề các-ten là một thí dụ). Kết Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển Bài đọc Chương 1 Kinh tế học về Chi phí Giao dịch Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh 3 quả cuối cùng là phạm vi thực sự và tiềm năng của kinh tế học về chi phí giao dịch rất rộng. So sánh với các phương pháp khác về nghiên cứu tổ chức kinh tế, kinh tế học về chi phí giao dịch (1) cĩ tính phân tích vi mơ hơn, (2) tự ý thức hơn về các giả định về hành vi của mình, (3) giới thiệu và phát triển tầm quan trọng về kinh tế của tính chuyên dụng hay đặc thù của tài sản (asset specificity), (4) dựa nhiều hơn vào phân tích so sánh về thể chế, (5) xem hãng (cơng ty) kinh doanh như là một cấu trúc quản trị chứ khơng phải là một hàm sản xuất đơn thuần, và (6) gắn tầm quan trọng lớn hơn cho các thể chế hậu nghiệm (ex post) của hợp đồng, với sự nhấn mạnh đặc biệt đến các trật tự tư (so với trật tự theo tịa án). Nhiều ý nghĩa bổ sung phát sinh khi giải quyết các vấn đề về tổ chức kinh tế theo cách này. Nghiên cứu về các thể chế kinh tế của nền kinh tế thị trường, như được đề xuất trong bài này, khẳng định rằng giao dịch là một đơn vị cơ bản của phép phân tích và nhấn mạnh rằng hình thức tổ chức cĩ tầm quan trọng. Quan điểm nền tảng ảnh hưởng đến nghiên cứu so sánh về các vấn đề của tổ chức kinh tế là: Người ta tiết kiệm được các chi phí giao dịch bằng cách gán các giao dịch (mà các giao dịch này cĩ các thuộc tính khác nhau) cho các cấu trúc quản trị (mà khả năng thích ứng và các chi phí đi kèm của chúng khác nhau – theo một cách thức cĩ phân biệt sáng suốt.6 Với tính phức tạp của những hiện tượng được xem xét lại, kinh tế học về chi phí giao dịch thường được sử dụng bổ sung cho các phương pháp khác chứ khơng phải loại trừ hết các phương pháp khác. Tuy nhiên, khơng phải mọi phương pháp đều mang lại nhiều kiến thức bổ ích như nhau, và đơi khi các phương thức khác nhau là đối thủ chứ khơng phải bổ trợ cho nhau. Bản chất của các chi phí giao dịch được phát triển trong phần 1. Phần 2 trình bày sơ đồ nhận thức về hợp đồng, trong sơ đồ này các phương pháp thay thế khác nhau về tổ chức kinh tế được mơ tả và liên quan đến sơ đồ này kinh tế học về chi phí giao dịch được xác định vị trí. Phần 3 trình bày quan hệ giữa các giả định về hành vi và các khái niệm về hợp đồng khác nhau. Phần 4 phát triển một giản đồ cơ bản về thiết lập hợp đồng mà lập luận trong sách này dựa vào một cách lặp đi lặp lại. Phần 5 xem xét các vấn đề về hợp đồng nảy sinh trong việc tổ chức thành phố cơng ty (company town). Những áp dụng khác được phác thảo trong phần 6. Phần cuối cùng là những nhận xét để kết luận. 1. Chi phí giao dịch 1.1 Tính khơng ma sát (Frictionlessness) Kenneth Arrow đã định nghĩa các chi phí giao dịch là “các chi phí vận hành hệ thống kinh tế” (1969, trang 48). Cần phải phân biệt các chi phí đĩ với chi phí sản xuất, vốn là loại chi phí mà phân tích tân cổ điển luơn luơn quá bận tâm đến. Chi phí giao dịch là yếu tố kinh tế tương đương với sức ma sát trong các hệ thống vật lý. Nhiều thành cơng của ngành vật lý trong việc xác định các thuộc tính của những hệ thống phức tạp bằng cách giả định khơng cĩ sức ma sát trong các hệ thống đĩ chắc chắn khơng cần phải thuật lại tỉ mỉ ở đây. Một chiến lược như thế cĩ sự hấp dẫn rõ ràng đối với các ngành khoa học xã hội. Điều khơng cĩ gì đáng ngạc nhiên là, việc khơng cĩ sức ma sát trong các hệ thống Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển Bài đọc Chương 1 Kinh tế học về Chi phí Giao dịch Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh 4 vật lý được dẫn chứng để minh họa cho sức mạnh về phân tích gắn liền với các giả định “khơng thực tế” (Friedman, 1953, các trang 16 đến 19). Nhưng trong khi các nhà vật lý học đã được nhắc nhở một cách nhanh chĩng bởi các dụng cụ trong phịng thí nghiệm và thế giới quanh họ rằng sức ma sát cĩ mặt khắp nơi và thường cần phải được tính đến một cách rõ ràng, thì các nhà kinh tế học đã khơng cĩ được sự hiểu biết và đánh giá tương ứng về các chi phí của việc vận hành hệ thống kinh tế. Thí dụ, hầu như khơng hề đề cập đến chi phí giao dịch, lại càng khơng đề cập đến các chi phí giao dịch như là yếu tố tương đương của sức ma sát, trong bài tiểu luận về phương pháp luận nổi tiếng của Milton Friedman (1953) hay trong các bài bàn luận thời hậu chiến khác về kinh tế học thực chứng.7 Như thế, mặc dù kinh tế học thực chứng thừa nhận rằng trên nguyên tắc các sức ma sát là quan trọng, nhưng kinh tế học thực chứng đã khơng cĩ ngơn ngữ mơ tả sức ma sát trên thực tế.8 Việc thiếu quan tâm đến các chi phí giao dịch đã cĩ nhiều ảnh hưởng, đặc biệt trong số các ảnh hưởng này là cách thức mà theo đĩ các phương thức khơng thơng thường về tổ chức kinh tế đã được giải thích. Cho đến khi người ta đưa ra qui định dự liệu rõ ràng cho các chi phí giao dịch, khả năng các phương thức tổ chức khơng thơng thường – các biện pháp hạn chế về khách hàng và địa bàn hoạt động, các mối quan hệ ràng buộc, việc đặt mua trước cả khối lượng lớn, việc nhượng quyền kinh tiêu (franchising), sự liên kết theo hàng dọc và những phương thức tương tự – vận hành để giúp tiết kiệm chi phí giao dịch đã hầu như khơng được hiểu rõ và đánh giá cao. Thay vào đĩ, hầu hết các nhà kinh tế học viện dẫn những cách giải thích theo độc quyền – những cách giải thích thuộc loại như sức mạnh, sự phân biệt đối xử về giá cả, hay các rào cản nhập ngành – khi đối diện với những cách thiết lập hợp đồng khơng thơng thường (Coase, 1972, trang 67). Các quan điểm của Donald Turner là tiêu biểu: “Tơi tiếp cận các biện pháp hạn chế về khách hàng và địa bàn hoạt động khơng phải một cách thân thiện theo truyền thống thơng luật, mà một cách khơng thân thiện theo truyền thống chống độc quyền.9 Như sẽ được thảo luận dưới đây, chương trình nghị sự về nghiên cứu và chính sách cơng đối với hoạt động kinh doanh đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi khuynh hướng thiên về độc quyền đĩ. Quan điểm thịnh hành về hãng (cơng ty) như là một hàm sản xuất là nguyên nhân chính dẫn đến tình hình đĩ. 1.2 Phân tính và giải thích tỉ mỉ Kinh tế học về chi phí giao dịch đặt vấn đề về tổ chức kinh tế thành vấn đề về thiết lập hợp đồng (problem of contracting). Một nhiệm vụ cụ thể phải được hồn thành. Nĩ cĩ thể được tổ chức theo bất cứ cách nào trong nhiều cách khác nhau. Hợp đồng rõ ràng hay ngầm ẩn và bộ máy hỗ trợ gắn với mỗi hợp đồng. Các chi phí là gì? Các chi phí giao dịch thuộc loại tiền suy hay xảy ra trước khi ký kết hợp đồng (ex ante) và loại hậu suy hay xảy ra sau khi ký kết hợp đồng (ex post) được phân biệt một cách hữu ích. Các chi phí giao dịch tiền suy (ex ante) là các chi phí soạn thảo, thương lượng, và bảo vệ một hợp đồng. Điều này cĩ thể được thực hiện hết sức cẩn thận, trong trường hợp này một văn kiện phức tạp được soạn thảo trong đĩ nhiều tình huống bất ngờ (tình huống bất trắc) được cơng nhận, và những sự điều chỉnh thích hợp bởi các bên được qui định rõ và được thỏa thuận trước. Hoặc văn kiện cĩ thể rất khơng hồn chỉnh, những khoảng Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển Bài đọc Chương 1 Kinh tế học về Chi phí Giao dịch Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh 5 trống sẽ được các bên lấp đầy khi tình huống bất ngờ phát sinh. Vì thế cho nên, thay vì dự liệu trước tất cả những cách giải quyết tình huống khĩ khăn cĩ thể tưởng tượng ra, mà đây là một việc làm đầy tham vọng, thì chỉ những phương án giải quyết tình huống khĩ khăn thật sự được dàn xếp khi tình huống đĩ xuất hiện. Các biện pháp bảo vệ cĩ thể dưới vài hình thức, hình thức hiển nhiên nhất là quyền sở hữu chung. Đối mặt với triển vọng những người mua bán độc lập sẽ trải qua những tình huống khĩ khăn về thiết lập hợp đồng, các bên cĩ thể thay thế thị trường bằng tổ chức nội bộ. Phải thừa nhận rằng, cách này khơng phải là khơng cĩ những vấn đề khĩ khăn riêng (hãy xem Chương 6). Hơn nữa, những biện pháp bảo vệ giữa các hãng thuộc loại tiền suy (ex ante) đơi khi cĩ thể được định hình để báo hiệu những cam kết đáng tin cậy và phục hồi tính tồn vẹn cho các giao dịch. Nghiên cứu về việc thiết lập hợp đồng “khơng thơng thường” quan tâm chủ yếu đến những vấn đề như thế. Hầu hết các nghiên cứu về giao dịch giả định rằng các qui phạm pháp luật cĩ hiệu lực liên quan đến những vụ tranh chấp về hợp đồng cĩ sẵn đâu vào đĩ rồi và được áp dụng bởi các tịa án theo cách thức cĩ cơ sở thơng tin, tinh vi và với chi phí thấp. Những giả định đĩ thật thuận tiện, theo nghĩa là các luật sư và các nhà kinh tế học khơng cần xem xét nhiều cách thức khác nhau mà bằng những cách đĩ các bên trong một vụ giao dịch “chính thức đồng ý khơng theo đúng hay xa rời” các cấu trúc quản trị của nhà nước bằng cách nghĩ ra những trật tự tư. Như thế, sự phân cơng để phấn đấu xuất hiện, nhờ đĩ mà các nhà kinh tế học luơn luơn quá bận tâm với các lợi ích kinh tế đổ dồn về sự chuyên mơn hĩa và giao dịch trao đổi, trong khi các chuyên gia pháp lý tập trung vào những chi tiết chuyên mơn của luật hợp đồng. Truyền thống “chủ nghĩa trọng pháp” (“legal centralism”) thể hiện định hướng sau (định hướng tập trung vào luật hợp đồng). Truyền thống này khẳng định rằng “các vụ tranh chấp địi hỏi ‘tiếp cận’ một diễn đàn ở bên ngồi bối cảnh xã hội ban đầu của vụ tranh chấp đĩ [và rằng] các biện pháp sửa chữa (khắc phục) sẽ được cung cấp theo đúng qui định của một cơ quan cĩ kiến thức đáng tin cậy và được đưa ra bởi các chuyên gia hoạt động dưới sự che chở của nhà nước” (Galanter, 1981, trang 1). Tuy nhiên, thực tế cho thấy điều ngược lại. Hầu hết các vụ tranh chấp, bao gồm nhiều vụ tranh chấp mà dưới các qui phạm pháp luật hiện hành cĩ thể được đưa ra tịa án, đều được giải quyết bằng biện pháp né tránh pháp luật, biện pháp tự lực, và những cách tương tự (Galanter, 1981, trang 2). Tính khơng thực tế của các giả định của chủ nghĩa trọng pháp cĩ thể được biện hộ bằng cách đề cập đến kết quả tốt của mơ hình trao đổi thuần túy. Ở đây khơng tranh luận về điều đĩ. Mối quan tâm của tơi là luật pháp và kinh tế học về trật tự tư (economics of private ordering) đã bị đẩy vào hậu trường do những giả định khơng thực tế nĩi trên. Điều đĩ thật đáng tiếc, bởi vì trong “nhiều trường hợp, các thành phần tham gia cĩ thể sáng tạo ra được những giải pháp thỏa đáng hơn đối với các vụ tranh chấp của họ so với các nhà chuyên mơn cĩ thể, các nhà chuyên mơn này bị gị bĩ vào việc áp dụng các qui tắc tổng quát trên cơ sở sự hiểu biết hạn chế về vụ tranh chấp đang được xem xét: (Galanter, 1981, trang 4).10 Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển Bài đọc Chương 1 Kinh tế học về Chi phí Giao dịch Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh 6 Các vấn đề ở đây tương tự với các vấn đề mà Karl Llewellyn đã quan tâm khi ơng thảo luận về hợp đồng vào năm 1931, nhưng kể từ đĩ đã bị tránh né một cách cĩ hệ thống.11 Nhưng đối với những sự hạn chế của chủ nghĩa tập trung về pháp lý, người ta cĩ thể khơng để ý đến phía hậu suy của hợp đồng. Tuy nhiên, trong điều kiện cĩ những điều hạn chế rất thực tế tác động khơng tốt đến cách thức sắp xếp của tịa án (court ordering), thì các chi phí hậu suy (ex post) của hợp đồng sẽ phát sinh và xen vào. Kinh tế học về chi phí giao dịch nhấn mạnh rằng tất cả các loại chi phí của hợp đồng đều được chấp nhận ngang nhau. Các chi phí hậu suy (ex post) của việc thiết lập hợp đồng cĩ vài hình thức. Các hình thức này bao gồm (1) các chi phí về sự thích nghi sai lầm phát sinh khi các giao dịch chuyển dịch dần dần khỏi tình trạng liên kết phù hợp so với đường biểu diễn mà Masahiko Aoki gọi là “đường hợp đồng dịch chuyển” (1983)12 (2) các chi phí mặc cả phát sinh khi thực hiện các nỗ lực song phương để chỉnh sửa những tình trạng liên kết sai lầm xảy ra sau khi ký kết hợp đồng (3) các chi phí thành lập và điều hành gắn liền với các cấu trúc quản trị (thường khơng phải là các tịa án) mà các vụ tranh chấp được đưa ra để giải quyết, và (4) các chi phí về cam kết (bonding costs), đĩ là chi phí thực hiện các cam kết chắc chắn. Như thế, giả sử rằng hợp đồng qui định x nhưng, nhìn lại vấn đề sau khi sự việc đã xảy ra (hay khi cĩ hiểu biết đầy đủ), các bên nhận thức rõ rằng lẽ ra họ phải làm y. Tuy nhiên, dịch chuyển từ x sang y cĩ thể khơng dễ dàng. Cách thức phân chia các lợi ích đi kèm với sự dịch chuyển đĩ cĩ khuynh hướng dẫn đến việc mặc cả căng thẳng vì lợi ích riêng. Hành vi mang tính chiến lược và phức tạp cĩ thể được khơi gợi ra. Việc đưa vụ tranh chấp ra trước một diễn đàn khác cĩ thể hữu ích nhưng điều đĩ sẽ thay đổi tùy theo tình huống. Một sự thích nghi khơng đầy đủ sẽ được thực hiện nếu, do kết quả của các nỗ lực của cả hai loại, các bên khơng dịch chuyển đến y mà đến y’. Yếu tố gây phức tạp trong tất cả quá trình này là các chi phí tiền suy và hậu suy của hợp đồng phụ thuộc lẫn nhau. Nĩi cách khác, chúng phải được giải quyết đồng thời chứ khơng phải theo trình tự. Ngồi ra, các chi phí thuộc cả hai loại đều thường khĩ định lượng. Tuy nhiên, khĩ khăn được giảm nhẹ do sự thật là các chi phí giao dịch luơn luơn được đánh giá theo cách thức so sánh về thể chế, trong đĩ một phương thức thiết lập hợp đồng được so sánh với một phương thức thiết lập hợp đồng khác. Do đĩ, chênh lệch giữa độ lớn của các chi phí giao dịch, chứ khơng phải độ lớn tuyệt đối của chúng, cĩ tầm quan trọng. Như Herbert Simon nhận xét, việc so sánh các giải pháp thay thế về cấu trúc riêng rẽ cĩ thể sử dụng cơng cụ khá thơ sơ – “những phân tích như thế thường cĩ thể được thực hiện mà khơng cần cơng cụ tốn học tỉ mỉ hay sự tính tốn cận biên. Nĩi chung, những lập luận đơn giản và thơ thiển hơn nhiều sẽ đủ để chứng minh sự khơng bằng nhau giữa hai số lượng so với những lập luận cần thiết để chứng tỏ những điều kiện mà trong đĩ các số lượng này được làm cho bằng nhau ở cận biên.” (1978, trang 6). Nghiên cứu thực nghiệm về các vấn đề chi phí giao dịch hầu như khơng bao giờ cố gắng đo lường các chi phí như thế một cách trực tiếp. Thay vào đĩ, câu hỏi là liệu các quan hệ về tổ chức (thơng lệ thiết lập hợp đồng; các cấu trúc quản trị) cĩ phù hợp với các thuộc tính của các giao dịch như được tiên đốn bởi việc lý giải về chi phí giao dịch hay khơng. 1.3 Bối cảnh Rộng Lớn hơn Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển Bài đọc Chương 1 Kinh tế học về Chi phí Giao dịch Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh 7 Cuốn sách này tập trung thảo luận về sự tiết kiệm chi phí giao dịch, nhưng các chi phí giao dịch cần được đặt vào một bối cảnh rộng lớn hơn mà các chi phí này là một phần của bối cảnh đĩ. Sau đây là một số trong các yếu tố phù hợp – mà tơi thỉnh thoảng (nhưng khơng liên tục) đề cập đến: 1. Khi giữ bản chất của hàng hĩa hay dịch vụ sẽ được giao khơng đổi, sự tiết kiệm xảy ra khi tổng số các chi phí sản xuất và giao dịch được thiểu hĩa, do đĩ phải cơng nhận cĩ những sự đánh đổi về phương diện này. 2. Tổng quát hơn, thiết kế của hàng hĩa hay dịch vụ là biến số quyết định ảnh hưởng đến cầu cũng như cả hai loại chi phí sản xuất và giao dịch, do đĩ việc thiết kế được xem một cách phù hợp là một phần trong hệ thống tính tốn. 3. Bối cảnh xã hội của các giao dịch – phong tục, tập quán, thĩi quen, và v.v – cĩ ảnh hưởng, và vì thế cần phải được tính đến, khi chuyển từ một nền văn hĩa này sang một nền văn hĩa khác.13 4. Lập luận về chi phí giao dịch dựa một cách tổng quát và kín đáo vào hiệu lực của cạnh tranh trong việc tiến hành sự chọn lựa, tách biệt các phương thức hiệu quả hơn ra khỏi các phương thức kém hiệu quả hơn và chuyển các nguồn lực vào các phương thức hiệu quả hơn. Điều này xem ra hợp lý, đặc biệt khi các kết quả liên quan là các kết quả xuất hiện trong những khoảng thời gian năm năm và mười năm trong tương lai, chứ khơng phải trong thời gian rất gần.14 Tuy nhiên, nhận định trực quan này chắc được thuận lợi nhờ một lý thuyết được xây dựng đầy đủ hơn về quá trình chọn lựa nĩi trên. Như thế, các lập luận về chi phí giao dịch được để ngỏ cho một số ý kiến phản bác giống như những ý kiến phản bác quan điểm chính thống mà các nhà kinh tế học về tiến hĩa đã đưa ra (Nelson và Winter, 1982, các trang 356-70), mặc dù trong các khía cạnh khác cĩ sự bổ trợ mạnh mẽ (các trang 34-38) 5. Bất cứ khi nào các lợi ích và các chi phí xã hội và tư nhân khác nhau, thì phép tính chi phí xã hội sẽ chiếm ưu thế khi cố gắng tiến hành việc xử lý dựa trên qui định của pháp luật. 2. Sơ đồ Nhận thức về Hợp đồng Lĩnh vực chuyên mơn hĩa mà kinh tế học về chi phí giao dịch gắn chặt vào là tổ chức cơng nghiệp (tổ chức ngành). Một số cách tiếp cận dẫn đạo đối với nghiên cứu tổ chức cơng nghiệp và quan hệ giữa kinh tế học về chi phí giao dịch và các cách tiếp cận đĩ được xem xét ở đây. Lĩnh vực tổ chức cơng nghiệp (industrial organization) nghiên cứu hợp đồng xét theo các mục đích mà hợp đồng đáp ứng. Các bên đang cố gắng hồn thành những điều gì? Ở đây cũng như ở những nơi khác trong lĩnh vực tổ chức cơng nghiệp, các mục đích về độc quyền và hiệu quả được phân biệt một cách hữu ích. Sơ đồ nhận thức được trình bày trong Hình 1-1 bắt đầu với sự phân biệt này. Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển Bài đọc Chương 1 Kinh tế học về Chi phí Giao dịch Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh 8 2.1 Nhánh Độc quyền Tất cả các cách tiếp cận đối với hợp đồng được trình bày trong Hình 1-1, cách tiếp cận theo độc quyền cũng như cách tiếp cận theo hiệu quả, đều đề cập đến cùng một vấn đề hĩc búa: Những mục đích nào được đáp ứng bằng cách thay thế sự trao đổi trên thị trường cổ điển – qua đĩ sản phẩm được bán với giá đồng nhất cho tất cả người đến mua khơng cĩ hạn chế gì – bằng những hình thức thiết lập hợp đồng phức tạp hơn (bao gồm các phương thức phi thị trường về tổ chức kinh tế)? Những cách tiếp cận theo độc quyền qui cho những sự tách rời khỏi chuẩn mực cổ điển là do mục đích độc quyền. Thay vào đĩ, những cách tiếp cận theo hiệu quả cho rằng những sự tách rời khỏi chuẩn mực cổ điển đáp ứng các mục đích tiết kiệm chi phí. Bốn cách tiếp cận theo độc quyền đối với hợp đồng được xếp thành hai nhĩm dưới hai tiêu đề. Tiêu đề thứ nhất xem xét những cách sử dụng các biện pháp hạn chế về khách hàng và địa bàn hoạt động, việc duy trì mức giá bán lại, kinh doanh (đại lý) độc quyền, liên kết dọc, và những phương thức tương tự trong quan hệ với những người mua. Tiêu đề thứ hai đề cập đến tác động của những thơng lệ thực hành như thế đối với các đối thủ cạnh tranh. Lý thuyết về “thế lực” (“leverage”) về hợp đồng và cách giải thích theo sự phân biệt giá về việc thiết lập hợp đồng khơng thơng thường đều tập trung vào những người mua. Richard Posner (1979) kết hợp lý thuyết về thế lực (leverage theory) với cách tiếp cận của “Trường phái Harvard” (trước đĩ) và sự phân biệt giá cả với cách tiếp cận của “Trường phái Chicago” đối với kinh tế học về chống độc quyền. Lý thuyết về thế lực khẳng định rằng quyền lực độc quyền ban đầu cĩ thể được mở rộng và rằng những cách thiết lập hợp đồng khơng thơng thường hồn thành việc mở rộng này. Mặc dù lý thuyết về thế lực gần như khơng được tin tưởng trong giới các nhà kinh tế học,15 nhưng lý thuyết này vẫn giữ được sức hấp dẫn đối với nhiều luật sư và tiếp tục đi vào được các bản tĩm tắt về pháp lý16 và các ý kiến của tịa án.17 Cách tiếp cận theo sự phân biệt giá cả đối với việc thiết lập hợp đồng khơng thơng thường khẳng định rằng quyền lực độc quyền ban đầu khơng thay đổi. Sự phân biệt giá cả chỉ đơn thuần là một phương tiện qua đĩ quyền lực độc quyền tiềm ẩn được biến thành hiện thực. Cách giải thích này về việc thiết lập hợp đồng khơng thơng thường đã được đưa ra bởi Aaron Director và Edward Levi (1956) cùng với phương thức bán kèm (tie-in sales) và bởi George Stigler (1963) liên quan đến phương thức đặt mua trước cả khối lượng lớn. Bán kèm và đặt mua trước cả khối lượng lớn được coi như là những cơng cụ, mà bằng những cơng cụ này những người bán cĩ thể biết được những chênh lệch về định giá trị sản phẩm nền tảng giữa những người tiêu dùng và cĩ thể chuyển đổi thặng dư của người tiêu dùng (thặng dư tiêu dùng) thành tiền. Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển Bài đọc Chương 1 Kinh tế học về Chi phí Giao dịch Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh 9 Hình 1 –1 Sơ đồ Nhận thức về Hợp đồng Hai cách tiếp cận theo độc quyền khác xem xét những thơng lệ lập hợp đồng khơng thơng thường liên quan đến đối thủ cạnh tranh. Các cách tiếp cận này đề cập một cách rõ ràng đến việc mở rộng quyền lực độc quyền của những hãng lớn đã tồn tại lâu dài và cĩ tiếng tăm so với những đối thủ cạnh tranh thực sự hay tiềm năng. Tài liệu về rào Khách hàng Thế lực Phân biệt giá cả Đối thủ cạnh tranh Các Rào cản Nhập ngành Khách hàng Độc quyền Hành vi Mang tính Chiến lược Hiệu quả Quyn S hu Tài sn Các Động cơ Khuyến khích Ủy quyền – tác nghiệp Chi phí giao dịch Quản trị Đo lường Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển Bài đọc Chương 1 Kinh tế học về Chi phí Giao dịch Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh 10 cản nhập ngành, gắn liền một cách nổi bật với cơng trình nghiên cứu của Joe Brain (1956), là nằm trong truyền thống đĩ. Cơng trình nghiên cứu ban đầu trong lĩnh vực này là cơng trình bị chỉ trích dữ dội, phần lớn sự chỉ trích xuất phát từ Trường phái Chicago. Các vấn đề khĩ khăn chính của cơng trình ban đầu này là nĩ cĩ tính tĩnh và khơng xác định cẩn thận những điều kiện tiên quyết để cho các lập luận về rào cản nhập ngành được chấp nhận. Tài liệu gần đây hơn về hành vi mang tính chiến lược giảm bớt được nhiều trong số những sự phản bác nĩi trên18. Những bất cân xứng về thơng tin và đầu tư được đưa ra bàn luận một cách rõ ràng. Những thuộc tính liên thời gian được cơng nhận; và những đặc điểm về hiệu ứng uy tín (reputation effect features) được phát triển. Việc sử dụng phương thức thiết lập hợp đồng khơng thơng thường làm một phương tiện để “làm tăng các chi phí của đối thủ cạnh tranh” (Salop và Scheffman, 1983) là một khả năng đặc biệt hấp dẫn. Ngoại trừ tài liệu nghiên cứu gần đây về hành vi mang tính chiến lược, tất cả các cách tiếp cận theo độc quyền đối với hợp đồng hoạt động trong khuơn khổ tân cổ điển, trong đĩ hãng (cơng ty) được xem là một hàm sản xuất. Bởi vì những biên giới tự nhiên của hãng trong khuơn khổ đĩ được xác định bởi cơng nghệ, nên bất cứ nỗ lực nào của hãng nhằm mở rộng tầm ảnh hưởng hay hoạt động của mình bằng cách dựa vào việc thiết lập hợp đồng khơng thơng thường đều được cho là cĩ mục đích và ảnh hưởng độc quyền.19 Cách tiếp cận theo “lý thuyết giá cả ứng dụng” đối với tổ chức cơng nghiệp là định hướng thịnh hành thời hậu chiến. Như Coase nhận xét (1972, trang 61), định hướng này ảnh hưởng đến nội dung cả hai cuốn sách hàng đầu về tổ chức cơng nghiệp – một cuốn của Joe Brain (1958); cuốn kia của George Stigler (1968). Cách tiếp cận khơng thân thiện đối với việc cưỡng chế thi hành luật chống độc quyền, mà tơi đã đề cập ở mục 1.1, cĩ định hướng tương tự. Ngược lại, phần lớn tài liệu về hành vi mang tính chiến lược kết hợp chặt chẽ hơn với khái niệm cấu trúc quản trị về doanh nghiệp (hãy xem Chương 14). Nhằm mục đích nêu bật sự phân biệt về độc quyền quan trọng này, đường cong đứt khoảng (được ký hiệu là PF) trong Hình 1-1 tách biệt các cách tiếp cận theo hàm sản xuất trước đây với khái niệm mang tính chiến lược về hợp đồng gần đây hơn. 2.2 Nhánh Hiệu quả Hầu hết những gì tơi đề cập đến như là Kinh tế học mới về thể chế nằm trên nhánh hiệu quả của hợp đồng. Nhánh hiệu quả về hợp đồng phân biệt giữa những cách tiếp cận mà trong đĩ nhấn mạnh đến những liên kết về khuyến khích (incentive alignments) và những cách tiếp cận dành vai trị nổi bật cho lợi thế kinh tế do chi phí giao dịch (economies of transaction costs). Tài liệu về liên kết động cơ khuyến khích tập trung vào phía tiền suy (ex ante) của hợp đồng. Theo đĩ, những hình thức mới của quyền sở hữu tài sản và việc thiết lập hợp đồng phức tạp được giải thích như là các nỗ lực để khắc phục những khiếm khuyết về động cơ khuyến khích của những quyền sở hữu tài sản đơn giản hơn và những truyền thống thiết lập hợp đồng đơn giản hơn. Ronald Coase (1960), Armen Alchian (1961; 1965), và Harold Demsetz (1967; 1969) liên quan một cách nổi bật với tài liệu về quyền sở hữu tài sản.20 Leonid Hurwicz (1972; 1973), Michael Spence và Richard Zeckhauser (!971), Stephen Ross (1973), Michael Jensen và William Meckling (1976), và James Mirrlees (1976) mở ra cách tiếp cận ủy quyền – tác nghiệp (agency approach)21 Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển Bài đọc Chương 1 Kinh tế học về Chi phí Giao dịch Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh 11 Tài liệu về quyền sở hữu tài sản nhấn mạnh rằng quyền sở hữu cĩ tầm quan trọng, trong đĩ các quyền sở hữu một tài sản cĩ ba phần: quyền sử dụng tài sản đĩ, quyền chiếm giữ làm của riêng thu nhập từ tài sản đĩ, và quyền thay đổi hình thức và/hoặc nội dung (thực chất) của một tài sản (Furubotn và Pejovich, 1974, trang 4). Ngay sau khi xác định chính xác các quyền sở hữu tài sản, người ta thường giả định (thường là ngầm ẩn, đơi khi rõ ràng) rằng việc sử dụng tài sản sau đĩ sẽ phù hợp với các mục đích của chủ sở hữu. Điều này sẽ tồn tại nếu (1) cấu trúc quyền sở hữu tài sản đã được chấp thuận một cách hợp pháp được mọi người tơn trọng và (2) những người đại diện pháp luật thi hành nhiệm vụ của mình phù hợp với những chỉ thị, hướng dẫn.22 Như thế, trong khi nhánh độc quyền của hợp đồng giải thích những hình thức giao dịch khơng thơng thường là cĩ mục đích và hậu quả về độc quyền, thì tài liệu về quyền sở hữu tài sản nêu câu hỏi liệu những sự xác định sai lầm quyền sở hữu tài sản cĩ phải là nguyên nhân của những sự phân bổ sai lầm nguồn lực hay khơng. Việc mơ tả lại các quyền sở hữu tài sản, cĩ lẽ theo những cách thức phức tạp (khơng thơng thường), là điều giải thích cho những điểm khơng bình thường về hợp đồng. Nĩi cách khác, việc thiết lập hợp đồng rời rạc trên thị trường được thay thế bởi những hình thức thiết lập hợp đồng phức tạp hơn, bởi vì đĩ là cách thức cĩ thể đặt các quyền kiểm sốt cịn lại (residual rights to control) vào tay của những người cĩ thể sử dụng các quyền đĩ một cách hiệu quả nhất về mặt sản xuất. Tài liệu về ủy quyền-tác nghiệp (agency), đặc biệt là tài liệu về ủy quyền-tác nghiệp ban đầu, nhấn mạnh rằng những người ủy quyền (principals) ký hợp đồng với sự nhận biết đầy đủ về những rủi ro (hazards) mà việc thực thi hợp đồng của những người thừa hành (agents) gây ra. Như thế, mặc dù sự tách rời quyền sở hữu khỏi quyền kiểm sốt làm suy giảm các động cơ khuyến khích về lợi nhuận, nhưng điều đĩ được dự kiến vào thời điểm sự tách rời xảy ra và được thể hiện đầy đủ trong giá của các cổ phần mới (Jensen và Meckling, 1976). Vì thế cho nên tương lai khơng cĩ điều gì bất ngờ; tồn bộ hành động về hợp đồng liên quan được tập hợp lại thành những liên kết về động cơ khuyến khích tiền suy (ex ante incentive alignments). Thật ra, như cơng trình nghiên cứu điều tra cĩ tính thuyết phục của Michael Jensen (1983) chỉ ra, tài liệu về ủy quyền-tác nghiệp đã phát triển thành hai phần. Ơng đề cập đến một nhánh như là lý thuyết thực chứng về ủy quyền-tác nghiệp (positive theory of agency). Ở đây, “sự thâm dụng vốn, mức độ chuyên mơn hĩa của tài sản, các chi phí thơng tin, các thị trường vốn, và các thị trường lao động bên trong và bên ngồi là những thí dụ về các nhân tố trong mơi trường thiết lập hợp đồng, mà chúng tương tác với các chi phí của các cách thực hành giám sát và xây dựng mối quan hệ ràng buộc để xác định các hình thức hợp đồng” (Jensen, 1983, các trang 334-335). Nhánh thực chứng (positive branch) khẳng định lặp đi lặp lại rằng các quá trình chọn lọc tự nhiên hiệu nghiệm một cách đáng tin (Fama, 1980; Jensen, 1983, trang 331; Fama và Jensen, 1983, các trang 301, 327) – lời phát biểu tuy cổ điển nhưng cĩ sắc thái khác nhiều và rất thận trọng về cách tiếp cận cĩ tính tiến hĩa đối với kinh tế học (1950) được trích dẫn như là căn cứ chính. Jensen đề cập đến loại tài liệu về ủy quyền-tác nghiệp (agency) thứ hai như là loại “người ủy quyền-người thừa hành” (“principal-agent”) (1983, trang 334). Tài liệu tương Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển Bài đọc Chương 1 Kinh tế học về Chi phí Giao dịch Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh 12 đối cĩ tính chính xác làm nổi bật vai trị của những liên kết về động cơ khuyến khích tiền suy với mức độ cao nhất. Gần đây hơn, nĩ được biết đến như là cách tiếp cận thiết kế cơ chế (mechanism design). Lĩnh vực nghiên cứu này tương tự với tài liệu nghiên cứu về thiết lập hợp đồng theo yêu sách tùy thuộc (contingent claims contracting)23, nhưng đi xa hơn bằng cách thừa nhận những điều phức tạp về thiết lập hợp đồng dưới hình thức thơng tin riêng tư (thơng tin cĩ tính chất cá nhân). Những vấn đề phức tạp về sự liên kết động cơ khuyến khích được đặt ra (mà trứơc đĩ tài liệu nghiên cứu về thiết lập hợp đồng theo các yêu sách tùy thuộc đã bỏ qua) nếu khơng thể giả định sự tiết lộ thành thật và đầy đủ thơng tin riêng tư. Tuy nhiên, trong các khía cạnh khác, các tài liệu nghiên cứu về thiết kế cơ chế và thiết lập hợp đồng theo yêu sách tùy thuộc rất tương tự với nhau: cả hai đều giải quyết tất cả các vấn đề về thiết lập hợp đồng liên quan trong một thỏa thuận tiền suy tồn diện24; và cả hai đều giả định cách thức sắp xếp của tịa án là cĩ hiệu quả.25 Một lần nữa, mục đích hiệu quả chứ khơng phải mục đích về độc quyền thúc đẩy lập luận nĩi trên. Tài liệu nghiên cứu về chi phí giao dịch cũng duy trì giả định cĩ thể bị bác bỏ rằng những hình thức thiết lập hợp đồng khơng thơng thường cĩ những mục đích về hiệu quả. Tuy nhiên, giai đoạn thực thi hợp đồng được chú ý nhiều hơn. Như Hình 1-1 cho thấy, cách tiếp cận theo chi phí giao dịch được chia ra thành hai nhánh, đĩ là nhánh quản trị và nhánh đo lường. Trong hai nhánh nĩi trên, cuốn sách này nhấn mạnh nhiều hơn đến nhánh quản trị. Tuy nhiên, cả hai nhánh quản trị và đo lường đều quan trọng và thực ra là phụ thuộc lẫn nhau. Cùng một cách như tài liệu nghiên cứu về quyền sở hữu tài sản, kinh tế học về chi phí giao dịch đồng ý rằng quyền sở hữu cĩ tầm quan trọng. Kinh tế học về chi phí giao dịch cịn thừa nhận thêm rằng những liên kết về động cơ khuyến khích tiền suy cĩ tầm quan trọng. Nhưng trong khi các cách tiếp cận theo quyền sở hữu tài sản và thiết kế cơ chế hoạt động trong phạm vi truyền thống chủ nghĩa tập trung về pháp lý, kinh tế học về chi phí giao dịch hồi nghi ý kiến cho rằng trật tự của tịa án (court ordering) là hiệu nghiệm. Thay vào đĩ, sự chú ý được chuyển sang trật tự tư (private ordering). Những thể chế (thể chế) nào được tạo ra với những đặc tính gì về quá trình dàn xếp tranh chấp và đưa ra quyết định theo trình tự và cĩ tính thích nghi? Vì thế cho nên, ngồi quyền sở hữu và sự liên kết động cơ khuyến khích, kinh tế học về chi phí giao dịch bổ sung thêm lời nhận định rằng các thể chế (thể chế) hỗ trợ hậu suy của hợp đồng cĩ tầm quan trọng James Buchanan đã lập luận rằng “kinh tế học đạt gần tình trạng là một “khoa học về hợp đồng” hơn là một “khoa học về sự chọn lựa” [vì lý do đĩ] người tối đa hĩa lợi nhuận phải được thay thế bởi trọng tài viên, đĩ là người bên ngồi cố gắng tìm ra những sự dung hịa (thỏa hiệp) giữa các yêu sách xung đột nhau”. (1975, trang 229). Cách tiếp cận theo sự quản trị (governance approach) chấp nhận định hướng khoa học về hợp đồng nhưng kết hợp trọng tài viên với một chuyên viên thiết kế thể chế. Mục đích khơng phải chỉ đơn thuần giải quyết xung đột đang diễn tiến mà cịn nhận thức trước xung đột tiềm tàng và nghĩ ra những cấu trúc quản trị để chặn trước hoặc làm giảm bớt xung đột đĩ. Kinh tế học về chi phí giao dịch khẳng định rằng việc tập trung tất cả hành động mặc cả phù hợp vào giai đoạn trước khi ký kết hợp đồng (ex ante) là điều khơng thể thực hiện. Thay vào đĩ, quá trình mặc cả dàn trải từ đầu đến cuối – vì lý do đĩ các thể chế (thể chế) về cách thức trật tự tư và việc nghiên cứu tồn bộ quá trình hợp đồng bắt đầu cĩ Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển Bài đọc Chương 1 Kinh tế học về Chi phí Giao dịch Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh 13 ý nghĩa kinh tế cĩ tính quyết định. Những thuộc tính về hành vi của những tác nhân con người, qua đĩ mà những điều kiện về tính duy lý hạn chế (bounded nationality) và chủ nghĩa cơ hội được kết hợp, và những thuộc tính phức tạp của các giao dịch (đặc biệt liên quan đến điều kiện về tính chuyên dụng của tài sản) là nguyên nhân của tình trạng đĩ. Nhánh đo lường của kinh tế học về chi phí giao dịch đề cập đến những điều mơ hồ về việc thực hiện hay về đặc tính gắn liền với việc cung cấp một hàng hĩa hay dịch vụ. Thí dụ như bài thảo luận của Alchian – Demsetz (1972) về tính khơng thể tách biệt về cơng nghệ (sự tổ chức theo nhĩm). Các vấn đề nĩi trên kể từ đĩ đã được William Ouchi (1980b) xử lý trong bối cảnh sự tổ chức cơng việc và Joram Barzel (1983) về sự tổ chức các thị trường. Một ứng dụng thú vị gần đây là nghiên cứu của Roy Kenney và Benjamin Klein (1983) về điều họ gọi là “oversearching” (“tìm kiếm quá mức”). Họ phản đối quan điểm của Stigler cho rằng phương thức đặt mua trước cả khối lượng lớn cĩ những mục đích về độc quyền (sự phân biệt giá cả) và thay vào đĩ họ cho rằng phương thức này dùng để tiết kiệm các chi phí về đo lường. Như đã chỉ ra trên đây, cuốn sách này chủ yếu đề cập đến nhánh quản trị của kinh tế học về chi phí giao dịch. Tuy nhiên, các khía cạnh về đo lường cũng được thảo luận – khi các khía cạnh này quả thực cần phải được thảo luận, bởi vì quản trị và đo lường phụ thuộc lẫn nhau. 3. Thế giới Hợp đồng Thế giới hợp đồng được mơ tả theo nhiều cách khác nhau như là một thế giới về (1) lập kế hoạch, (2) hứa hẹn, (3) cạnh tranh, và (4) quản trị (hay trật tự tư). Cách mơ tả nào trong những cách mơ tả nĩi trên thích hợp nhất phụ thuộc vào các giả định về hành vi liên quan đến một giao dịch và vào những đặc tính kinh tế của hàng hĩa hay dịch vụ được xem xét. Như được phát triển đầy đủ hơn trong Chương 2, nghiên cứu về tổ chức kinh tế cĩ kết quả hay khơng phụ thuộc một cách cốt yếu vào hai giả định về hành vi. Những năng lực về nhận thức nào và những thiên hướng tìm kiếm lợi ích riêng nào được gán cho các tác nhân con người tham gia vào giao dịch? Kinh tế học về chi phí giao dịch giả định rằng các tác nhân là con người phụ thuộc vào tính duy lý hạn chế, do đĩ hành vi là “duy lý một cách chủ ý, nhưng chỉ duy lý một cách cĩ giới hạn” (Simon, 1961, trang xxiv), và được cho là cơ hội chủ nghĩa, đĩ là điều kiện tìm kiếm lợi ích riêng với sự láu cá. Kinh tế học về chi phí giao dịch khẳng định thêm rằng khía cạnh cĩ tính quyết định nhất đối với việc mơ tả các giao dịch là điều kiện về tính chuyên dụng hay đặc thù của tài sản. Các bên tham gia vào một giao dịch thương mại được hỗ trợ bởi những đầu tư đáng kể vào các tài sản chuyên dụng cho giao dịch (transaction – specific assets) hoạt động một cách hiệu quả trong quan hệ thương mại song phương với nhau. Việc làm cho hài hịa điểm chung và tương tác theo hợp đồng kết nối các bên với nhau, qua đĩ tác động đến khả năng thích nghi và thúc đẩy tính liên tục, trở thành nguồn gốc của giá trị kinh tế thực sự. Nhưng đối với tình trạng khơng chắc chắn, thì các vấn đề về tổ chức kinh tế tương đối khơng cĩ gì thú vị. Vì thế, giả định rằng tình trạng khơng chắc chắn hiện diện với mức độ đáng kể và xét những ảnh hưởng phức tạp đối với hợp đồng của những khác biệt Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển Bài đọc Chương 1 Kinh tế học về Chi phí Giao dịch Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh 14 về tính duy lý hạn chế, tính cơ hội chủ nghĩa, và tính chuyên dụng của tài sản. Đặc biệt giả định rằng mỗi điều kiện trong những điều kiện nĩi trên cĩ thể nhận một trong hai giá trị sau đây: Hoặc yếu tố đĩ hiện diện với mức độ đáng kể (ký hiệu là +) hoặc yếu tố đĩ được cho là khơng hiện diện (ký hiệu là 0). Hãy xét ba trường hợp trong đĩ chỉ cĩ một trong ba yếu tố nĩi trên được cho là khơng hiện diện và sau đĩ xét trường hợp trong đĩ tất cả ba yếu tố được kết hợp. Bảng 1-1 cho thấy bốn tình trạng sẽ được so sánh và mơ hình về thiết lập hợp đồng gắn liền với mỗi tình trạng đĩ. Trường hợp mà trong đĩ các bên cĩ tính cơ hội chủ nghĩa và các tài sản cĩ tính chuyên dụng, nhưng các tác nhân kinh tế cĩ năng lực nhận thức khơng hạn chế thực chất là thể hiện nội dung tài liệu về thiết kế cơ chế (Hurwicz, 1972, 1973; Meyerson, 1979; Harris và Townsend, 1981). Mặc dù điều kiện về cơ hội chủ nghĩa địi hỏi phải viết các hợp đồng theo cách thế nào để tơn trọng thơng tin cá nhân, do đĩ các vấn đề liên kết động cơ khuyến khích phức tạp được đặt ra, nhưng tất cả các vấn đề liên quan của hợp đồng đều được giải quyết ở giai đoạn mặc cả trước khi ký kết hợp đồng (ex ante). Với tính duy lý hạn chế cho trước, sau khi mặc cả người ta đi đến một thỏa thuận tồn diện ngay từ ban đầu, mà dựa theo thỏa thuận này những sự thích nghi phù hợp đối với những sự kiện bất ngờ (cĩ thể quan sát được một cách cơng khai) sẽ xảy ra sau đĩ được mơ tả một cách đầy đủ. Như thế, các vấn đề khĩ khăn về thực thi hợp đồng khơng bao giờ phát sinh (hay sự từ bỏ các hợp đồng như thế bị ngăn cản bởi vì việc tịa án xét xử giải quyết tất cả các vụ tranh chấp được cho là hiệu nghiệm (Baiman, 1982, trang 168). Vì thế cho nên, trong bối cảnh tính duy lý hạn chế, hợp đồng được mơ tả như là thế giới về lập kế hoạch . Bảng 1-1. Các Đặc tính của Quá trình Thiết lập Hợp đồng. Giả định về Hành vi Tính duy lý hạn chế Tính cơ hội chủ nghĩa Tính Chuyên dụng của Tài sản Quá trình Thiết lập Hợp đồng được cho thấy một cách gián tiếp 0 + + Lập kế hoạch + 0 + Hứa hẹn + + 0 Cạnh tranh + + + Quản trị Hãy xét một tình huống khác, trong đĩ các tác nhân (agents) cĩ tính duy lý hạn chế và các giao dịch được hỗ trợ bởi các tài sản chuyên dụng, nhưng điều kiện về cơ hội chủ nghĩa được giả định là khơng hiện diện, điều này cĩ ý nghĩa là lời hứa của một tác nhân hồn tồn tin cậy được. Mặc dù những khoảng trống sẽ xuất hiện trong các hợp đồng này, do tính duy lý hạn chế, nhưng chúng khơng gây ra những rủi ro về thực thi hợp đồng nếu các bên sử dụng đến một điều khoản tổng quát về tự cưỡng chế thực thi (tự bảo đảm tuân thủ). Mỗi bên trong hợp đồng chỉ đơn giản cam kết ngay từ đầu sẽ thực hiện hợp đồng một cách hiệu quả (theo cách thức tối đa hĩa lợi nhuận kết hợp (lợi nhuận tổng cộng của các bên)) và chỉ cố gắng đạt suất sinh lợi hợp lý ở những thời điểm tái tục hợp đồng cách khoảng nhau. Bằng cách đĩ, loại bỏ được hành vi mang tính chiến lược. Như thế, các bên trong hợp đồng thu nhận được tất cả những lợi ích đúng như những lợi ích họ được thừa hưởng khi đạt được thỏa thuận ban đầu. Sau đĩ, việc thực hiện hợp đồng tiến hành một cách hiệu quả đến lúc hồn tất bởi vì những lời hứa hẹn thuộc loại được mơ tả trên Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển Bài đọc Chương 1 Kinh tế học về Chi phí Giao dịch Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh 15 đây, khi khơng cĩ tính cơ hội chủ nghĩa, mang tính tự cưỡng chế thực thi (tự bảo đảm tuân thủ). Trong bối cảnh cảnh này, hợp đồng chỉ là thế giới về hứa hẹn. Kế tiếp, chúng ta hãy xét đến tình huống mà trong đĩ các tác nhân chịu tính duy lý hạn chế và được cho là cơ hội chủ nghĩa, nhưng tính chuyên dụng của tài sản được coi là khơng cĩ. Các bên tham gia các hợp đồng như thế khơng cĩ những mối quan tâm liên tục đến nhận dạng đặc trưng (identity) của nhau. Điều này mơ tả thế giới mà ở đĩ việc thiết lập hợp đồng rời rạc trên thị trường là hiệu nghiệm, ở đĩ các thị trường mang tính cĩ thể tranh giành một cách hồn tồn,26 và ở đĩ việc đấu giá mua nhượng quyền kinh tiêu (franchise bidding) để cĩ độc quyền tự nhiên được chấp nhận. Bởi vì sự gian lận và những hành động lừa dối quá mức bị ngăn cản bởi cách thức sắp xếp của tịa án,27 nên trong bối cảnh này, hợp đồng được mơ tả bởi thế giới về cạnh tranh. Mỗi cơng cụ trong ba cơng cụ nĩi trên sẽ thất bại khi tính duy lý hạn chế, tính cơ hội chủ nghĩa, và tính chuyên dụng của tài sản được kết hợp. Việc lập kế hoạch nhất thiết là khơng hồn chỉnh (do tính duy lý hạn chế), sự hứa hẹn cĩ thể tiên đốn là sẽ đổ vỡ (do chủ nghĩa cơ hội), và nhận dạng đặc trưng từng cặp của các bên bây giờ cĩ tầm quan trọng (do tính chuyên dụng của tài sản). Đây là thế giới về quản trị. Bởi vì sự hiệu nghiệm của cách thức sắp xếp của tịa án cịn bấp bênh, nên việc thực hiện hợp đồng phần lớn là nhiệm vụ của các thể chế về trật tự tư. Đây là thế giới mà kinh tế học về chi phí giao dịch đề cập đến. Mệnh lệnh (điều quan trọng và cấp bách) về tổ chức nổi lên trong những tình huống đĩ là: Tổ chức các giao dịch nhằm mục đích giảm bớt được tính duy lý hạn chế trong khi đồng thời bảo vệ các giao dịch này khỏi những rủi ro của tính cơ hội chủ nghĩa. Lời phát biểu như thế ủng hộ một khái niệm khác biệt và rộng lớn hơn về vấn đề kinh tế so với mệnh lệnh “Tối đa hĩa lợi nhuận” ủng hộ. 4. Giản đồ Đơn giản về Thiết lập Hợp đồng Giả định rằng một hàng hĩa hay dịch vụ nào đĩ cĩ thể được cung cấp bởi một trong hai cơng nghệ thay thế khác nhau. Một cơng nghệ là cơng nghệ đa năng (general purpose technology), cơng nghệ kia là cơng nghệ đặc dụng hay chuyên năng (special purpose technology). Cơng nghệ đặc dụng địi hỏi đầu tư nhiều hơn vào các tài sản lâu bền chuyên dụng theo giao dịch (transaction – specific durable assets) và cĩ hiệu quả hơn cho việc đáp ứng những nhu cầu ở trạng thái dừng. Bằng cách sử dụng k làm một thước đo về các tài sản chuyên dụng (đặc định) theo giao dịch, các giao dịch sử dụng cơng nghệ đa năng là các giao dịch mà đối với chúng k=1. Ngược lại, khi các giao dịch sử dụng cơng nghệ đặc dụng, thì điều kiện k>0 hiện hữu. Các tài sản ở đây được chuyên biệt hĩa theo các yêu cầu đặc biệt của các bên. Các giá trị về sản xuất vì thế sẽ bị mất đi khi các giao dịch thuộc loại này được chấm dứt sớm trước thời hạn. Điều kiện độc quyền song phương (tay đơi) được mơ tả ở trên và được trình bày chi tiết trong Chương 2 áp dụng cho các giao dịch như thế. Trong khi việc thiết lập hợp đồng trên thị trường cổ điển – “vào nhanh bằng sự thỏa thuận dứt khốt, ra nhanh bằng sự thực hiện dứt khốt” (Macneil, 1974, trang 738) – là đủ cho các giao dịch thuộc loại k=0, thì sự quản trị theo thị trường khơng được trợ giúp đặt ra những rủi ro bất cứ khi nào các tài sản chuyên dụng theo giao dịch quan trọng bị Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển Bài đọc Chương 1 Kinh tế học về Chi phí Giao dịch Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh 16 đặt vào tình trạng cĩ nguy cơ thất bại. Các bên cĩ động cơ khuyến khích nghĩ ra những biện pháp bảo vệ an tồn để bảo vệ các đầu tư vào những giao dịch thuộc loại sau. Hãy gọi S là ký hiệu của tầm mức của biện pháp bảo vệ an tồn như thế. Điều kiện S=0 là điều kiện trong đĩ khơng cĩ biện pháp bảo vệ an tồn nào được cung cấp; quyết định cung cấp các biện pháp bảo vệ an tồn được thể hiện bởi kết quả S>0. Hình 1-2 Giản đồ Đơn giản về Thiết lập Hợp đồng Hình 1-2 trình bày ba kết cục về thiết lập hợp đồng phù hợp với sự mơ tả như thế. Gắn liền với mỗi điểm nút (điểm A, B, C trên hình 1-2) là một mức giá. Nhằm mục đích tạo thuận lợi cho việc so sánh giữa các điểm nút này, giả định rằng các nhà cung cấp (1) trung tính (trung dung) với rủi ro, (2) sẵn sàng cung cấp sản phẩm với cơng nghệ nào cũng được, và (3) sẽ chấp nhận bất cứ điều kiện bảo vệ an tồn nào, trong chừng mực cĩ thể dự phĩng được kết quả hịa vốn kỳ vọng. Như thế, điểm nút A là quan hệ cung với cơng nghệ đa năng (k=0), đối với quan hệ cung này, mức giá hịa vốn là P1 được dự phĩng. Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển Bài đọc Chương 1 Kinh tế học về Chi phí Giao dịch Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh 17 Hợp đồng ở điểm nút B được hỗ trợ bởi các tài sản chuyên dụng (đặc định) theo giao dịch (k>0), mà đối với hợp đồng này khơng cĩ điều kiện bảo vệ an tồn nào được đưa ra (S=0). Ở đây, giá hịa vốn kỳ vọng là p . Hợp đồng ở điểm nút C cũng sử dụng cơng nghệ đặc dụng. Nhưng vì người mua ở điểm nút này đưa ra cho nhà cung cấp một điều kiện bảo vệ an tồn, (S>0), nên giá hịa vốn, p, ở điểm nút C thấp hơn p . Những biện pháp bảo vệ an tồn mà tơi đề cập thường dưới một hay hơn một hình thức trong ba hình thức sau đây. Hình thức thứ nhất là tái liên kết các động cơ khuyến khích, mà thường bao hàm một loại trợ cấp kết thúc hợp đồng (severance payment) hay một khoản tiền phạt đối với việc kết thúc sớm trước thời hạn nào đĩ. Hình thức thứ hai là tạo ra và sử dụng một cấu trúc quản trị chuyên biệt, để đưa ra và giải quyết các vụ tranh chấp trước các cấu trúc này. Như thế, việc sử dụng trọng tài, thay vì kiện tụng tại các tịa án, là một đặc điểm của sự quản trị ở điểm nút C. Hình thức thứ ba là đưa ra những mơ thức đều đặn về thương mại hỗ trợ và báo hiệu những dự định về tính liên tục của hợp đồng. Việc mở rộng quan hệ thương mại từ trao đổi đơn phương sang trao đổi song phương – thơng qua việc sử dụng cĩ phối hợp, thí dụ, nguyên tắc cĩ qua cĩ lại – qua đĩ thực hiện sự cân bằng các rủi ro thương mại là một thí dụ về hình thức cuối đĩ. Giản đồ đơn giản về thiết lập hợp đồng này, mà sẽ được trình bày chi tiết sau này, áp dụng cho nhiều vấn đề khác nhau về thiết lập hợp đồng. Giản đồ này làm cho phân tích so sánh về thể chế (thể chế) dễ dàng bằng cách nhấn mạnh rằng cơng nghệ (k), những biện pháp bảo vệ an tồn/quản trị theo hợp đồng (S) và mức giá (p) cĩ tính tương tác hồn tồn và được xác định đồng thời. Trong suốt cuốn sách này, giản đồ nĩi trên sẽ được tham chiếu lặp đi lặp lại nhiều lần. Quả nhiên, thật là hài lịng khi thấy rằng nhiều áp dụng đến thế hĩa ra là những biến thể dựa trên một chủ đề. Như Hayek đã nhận xét, “Bất cứ khi nào người ra đã cĩ được năng lực nhận thức về qui tắc trừu tượng, mà sự sắp xếp các đặc tính này tuân theo, trong một lĩnh vực, thì cùng một khuơn mẫu gốc này sẽ áp dụng khi dấu hiệu về các đặc tính trừu tượng đĩ được tạo ra bởi những yếu tố hồn tồn khác” (1967, trang 50).28 Để tĩm tắt, các điểm nút A, B, và C trong giản đồ về hợp đồng được trình bày ở Hình 1-2 cĩ những đặc tính sau đây. 1. Các giao dịch được hỗ trợ một cách hiệu quả bởi các tài sản đa năng (k=0) nằm ở điểm nút A và khơng cần các cấu trúc quản trị bảo vệ. Việc thiết lập hợp đồng rời rạc trên thị trường là đủ. Thế giới về cạnh tranh tồn tại. 2. Các giao dịch địi hỏi những đầu tư đáng kể thuộc loại chuyên dụng theo giao dịch (k>0) là những giao dịch mà đối với chúng các bên tham gia một cách hiệu quả và thương mại song phương (tay đơi) 3. Các giao dịch nằm ở điểm nút B khơng cần cĩ biện pháp bảo vệ an tồn (S=0), vì lý do đĩ mức giá cung hịa vốn dự phĩng là cao ( p > p). Những giao dịch như thế cĩ khuynh hướng khơng ổn định về mặt hợp đồng. Chúng cĩ thể trở lại điểm nút A (trong trường hợp đĩ cơng nghệ đặc dụng sẽ được thay thế bởi cơng nghệ đa năng (k=0)) hay được chuyển sang điểm nút C (bằng cách đưa ra các biện pháp bảo vệ an tồn theo hợp đồng mà sẽ khuyến khích việc tiếp tục sử dụng cơng nghệ đặc dụng (k>0)). Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển Bài đọc Chương 1 Kinh tế học về Chi phí Giao dịch Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh 18 4. Các giao dịch nằm ở điểm nút C cĩ kết hợp các biện pháp bảo vệ an tồn (S>0) và như thế các giao dịch này được bảo vệ chống lại các rủi ro về chiếm đoạt. 5. Trong chừng mực giá cả và quản trị được liên kết với nhau, các bên tham gia hợp đồng khơng nên trơng đợi sẽ được hưởng lợi cả đơi đường, mà thực ra là được cái này (giá thấp) thì mất cái kia (khơng cĩ biện pháp bảo vệ an tồn) và ngược lại. Tổng quát hơn, điều quan trọng là phải nghiên cứu tồn bộ quá trình hợp đồng. Cả những điều khoản tiền suy (ex ante) lẫn cách thức thực hiện hợp đồng sau đĩ đều thay đổi theo các đặc điểm về đầu tư và các cấu trúc quản trị liên quan mà trong đĩ các giao dịch gắn chặt vào. 5. Tổ chức Kinh tế của Thành phố Cơng ty (Company Town) Thành phố Cơng ty (Company Town) chủ yếu được xem là một điều nhắc nhở đến những sự lạm dụng lao động gắn với thời đại trước đây. Chắc chắn là khơng thể nĩi điều gì thuận lợi, càng khơng thể bào chữa gì về một tình trạng như thế. Tuy nhiên, các thành phố cơng ty là ngoại lệ chứ khơng phải là thơng lệ (thành phố cơng ty là điều bất thường). Hơn nữa, câu hỏi cần được nêu lên là, tại sao lại cĩ người chấp nhận làm việc với những điều kiện khơng thuận lợi một cách hiển nhiên? Tổng quát hơn, những giải pháp thay thế về mặt hợp đồng phù hợp, mà đối với chúng cần cĩ sự đánh giá so sánh, là những giải pháp nào? Vì nghiên cứu về các trường hợp thái cực thường giúp làm sáng tỏ những điều cơ bản của một tình huống (Behaviorial Sciences Subpanel (Tiểu nhĩm Các Khoa học về Hành vi), 1962, trang 5), nên sự nghiên cứu xem xét các vấn đề khĩ khăn về tổ chức mà thành phố cơng ty đối mặt cĩ thể mang lại nhiều thơng tin hữu ích. Các vấn đề được xử lý theo hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất minh họa những ưu điểm và giai đoạn thứ hai minh họa những giới hạn của việc nghiên cứu tổ chức kinh tế trên quan điểm “tồn bộ quá trình thiết lập hợp đồng” 5.1 Phân tích Hợp đồng Giả định những điều sau đây: (1) Người ta đã xác định vị trí một nguồn khống sản ở một nơi hẻo lánh, việc khai thác nguồn khống sản này được cho là cĩ lợi; (2) người ta chỉ cĩ thể khai thác nguồn khống sản này sau khi thực hiện những đầu tư đáng kể vào tài sản vật chất lâu bền mà về sau khơng thể chuyển đi chỗ khác; (3) các kỹ năng cần thiết của lao động khơng cĩ tính chuyên biệt theo hãng ở mức độ đáng kể, nhưng cĩ các chi phí bố trí sản xuất liên quan đến việc chuyển lao động đến nơi sản xuất mới; (4) thời tiết ở vùng cĩ khống sản này rất khắc nghiệt, điều này địi hỏi phải cung cấp nhà ở lâu bền để bảo vệ khỏi tác động của thời tiết; (5) cộng đồng những người thợ mỏ quá nhỏ đến nổi khơng thể đủ khách hàng cho hơn một cửa hàng bách hĩa tổng hợp; và (6) thành phố gần nhất cách xa vùng khống sản này bốn mươi dặm. Tơi muốn tập trung vào hai vấn đề: Các cơng nhân hay hãng khai thác mỏ nên sở hữu nhà ở trong cộng đồng? Cửa hàng bách hĩa tổng hợp nên được sở hữu và điều hành như thế nào? Nhằm mục đích trình bày các đặc điểm liên quan rõ ràng hơn, hai kịch bản khác nhau về tính di động (mobility scenarios) sẽ được xem xét. Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển Bài đọc Chương 1 Kinh tế học về Chi phí Giao dịch Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh 19 a. XÃ HỘI BẤT ĐỘNG Đây là thời đại trước khi cĩ xe ơ tơ. Hãng quảng cáo để tìm cơng nhân và mơ tả các điều khoản về tuyển dụng lao động. Với địa điểm xa xơi hẻo lánh, các cơng nhân sẽ quan tâm đến khơng chỉ tiền cơng mà cịn nhà ở và cơ sở hạ tầng về kinh tế. Nếu hãng quyết định tự mình xây dựng nhà ở, thì hãng cĩ thể (1) bán các căn nhà đĩ cho cơng nhân, (2) cho cơng nhân thuê các căn nhà đĩ với hợp đồng thuê ngắn hạn, (3) viết những hợp đồng thuê dài hạn với những khoản phạt nghiêm ngặt đối với việc chấm dứt sớm trước thời hạn của người thuê, hay (4) viết những hợp đồng thuê dài hạn ràng buộc hãng, nhưng cho phép người thuê được chấm dứt hợp đồng dễ dàng. Hoặc một cách khác là hãng cĩ thể (5) yêu cầu các cơng nhân tự xây dựng nhà ở của riêng họ. Với thị trường mỏng như nĩi trên, các cơng nhân tự xây dựng nhà ở riêng của họ thực ra là thực hiện những đầu tư chuyên biệt theo hãng. Thiếu các biện pháp bảo vệ an tồn theo hợp đồng – các điều khoản về mua lại (nhờ đĩ mà cơng ty hay hãng bảo đảm thị trường trong trường hợp tạm cho nghỉ việc hay chấm dứt hợp đồng), những điều khoản bảo đảm cơng ăn việc làm dài hạn, những khoản trợ cấp thơi việc gộp, những khoản trợ cấp tử vong, và những điều tương tự – nên cơng nhân sẽ chỉ đồng ý thực hiện những đầu tư như thế khi họ được đề nghị một khoản tiền thưởng ký hợp đồng làm việc và/hoặc một khoản chênh lệnh cao hơn về tiền cơng. Thể hiện theo giản đồ cơ bản về hợp đồng trong Hình 1-1, phương án cuối cùng đĩ tương ứng với một kết quả ở điểm nút B chứ khơng phải một kết quả ở điểm nút C (nghĩa là, một kết cục w > w) Tuy nhiên, các kết cục ở điểm nút B nổi tiếng là khơng hiệu quả. Các chi phí cận biên của hãng sẽ bị đẩy lên cao do thỏa thuận về tiền cơng w, do đĩ hãng sẽ thực hiện việc tạm cho nghỉ việc (giãn thợ) dựa theo một tiêu chí khơng hiệu quả. Tương tự, những kế hoạch về nhà ở được các cơng nhân chọn cĩ nguy cơ bị tác hại do những rủi ro nĩi trên. Như thế, những ưu điểm của việc tập trung tất cả những đầu tư chuyên biệt vào tay hãng khai thác mỏ cĩ khuynh hướng là hiển nhiên đối với cả hai bên ngay từ đầu (hoặc sẽ trở nên hiển nhiên trong suốt các cuộc đàm phán giữa hai bên). Vì thế, quyền sở hữu nhà ở (cho cơng nhân) của hãng khai thác mỏ cùng với các điều khoản hợp đồng thuê hiệu quả phải được chấp nhận. Phương án 4 – các hợp đồng thuê dài hạn ràng buộc bên cho thuê nhưng cho phép bên thuê được chấm dứt hợp đồng dễ dàng – cĩ những điểm hấp dẫn rõ ràng.29 Hãy xét đến cửa hàng bách hĩa. Ở đây, những khả năng hàng đầu là: (1) Cửa hàng bách hĩa này được sở hữu bởi hãng khai thác mỏ và (a) được điều hành như một độc quyền, (b) được đặt dưới một giới hạn về suất sinh lợi hợp lý, hay (c) được đặt dưới một giới hạn rổ hàng hĩa tiêu biểu trên thị trường (số chỉ số); (2) một nhượng quyền kinh tiêu (franchise) nhiều năm được cấp cho người đặt giá cao nhất, số tiền thu được từ cuộc bán đấu giá cạnh tranh này (a) được trả cho quỹ của cơng ty, (b) được phân chia trong nhĩm cơng nhân ban đầu, hay (c) được đưa vào một quỹ thị trường vốn ngắn hạn và chi trả cho các khách hàng trong suốt tuổi thọ của hợp đồng nhượng quyền kinh tiêu tỷ lệ với số tiền mua hàng; và (3) cửa hàng bách hĩa được sở hữu và điều hành bởi các cơng nhân như một hợp tác xã. Mặc dù khơng cĩ phương án nào trong các phương án nĩi trên là Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển Bài đọc Chương 1 Kinh tế học về Chi phí Giao dịch Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh 20 khơng cĩ vấn đề rắc rối, nhưng các phương án 2c và 3 cĩ nhiều điều xứng đáng đề xuất chúng.30 Dù sự quyết định thế nào đi nữa, điểm tổng quát hơn là: Thỏa thuận về tiền cơng mà các cơng nhân đồng ý sẽ phụ thuộc vào, chứ khơng phải độc lập với, cách thức sở hữu và điều hành cửa hàng bách hĩa nếu, theo như đã giả định, những nhận thức trong hợp đồng phản ảnh tất cả đặc điểm nổi bật nhất – mà quyền sở hữu và sự quản trị cửa hàng bách hĩa phù hợp với chúng một cách rõ ràng. b. XÃ HỘI DI ĐỘNG Sự xuất hiện của xe ơ tơ, nhà ở lưu động, tủ đơng lạnh dùng trong nhà, các cơ sở kinh doanh hàng hĩa mua bán bằng đường bưu điện, và những phương tiện tương tự làm giảm bớt rất nhiều những khĩ khăn về thiết lập hợp đồng của thời đại trước khi xã hội cĩ tính di động. Yêu cầu phải đầu tư vào nhà ở chuyên biệt theo địa điểm được giảm nhẹ nhờ việc phát minh ra những tài sản phù hợp trên các bánh xe, đĩ là điều mà phương án nhà ở lưu động biểu hiện. Người ta khơng cịn phải dựa một cách độc nhất vào cửa hàng bách hĩa nhờ khả năng mua hàng ở cách xa, mà giao thơng vận tải ít tốn kém đến thành phố kế cận và việc mua hàng từ những cơ sở kinh doanh mua bán hàng qua đường bưu điện cho phép. Như thế, những thay đổi về thị trường và cơng nghệ cĩ những ảnh hưởng về hợp đồng rất rộng. Thực ra, một giải pháp thay thế cĩ thể tồn tại và phát triển ở điểm nút A được đưa vào tập hợp chọn lựa mà trước đây đã là một tập hợp chọn lựa phức tạp về mặt hợp đồng ở điểm nút B/điểm nút C. Phải cơng nhận là, các cộng đồng khai thác mỏ xa xơi hẻo lánh cĩ thể vẫn biểu hiện các vấn đề khác mà đối với những vấn đề này sẽ cần đến những đánh giá so sánh về thể chế cẩn thận. Tuy nhiên, rõ ràng là những sự căng thẳng về hợp đồng của thời đại trước đây được giảm bớt nhiều nhờ tính di động mà các tài sản trên các bánh xe và sự cạnh tranh cho phép. 5.1 Một vài bảo lưu Nếu tồn bộ quá trình thiết lập hợp đồng tồn tại và cĩ hiệu lực, thì một cơ cấu hiệu quả của tiền cơng, quyền sở hữu nhà ở, những hoạt động của cửa hàng bách hĩa của cơng ty, và những thứ tương tự sẽ xuất hiện, bất kể điều kiện về tính di động của dân cư ra sao. Thế thì điều gì giải thích cho sự bất mãn phổ biến đối với tổ chức của các thành phố cơng ty (company towns) trong thời đại trước khi xã hội cĩ tính di động? Cĩ hai khả năng hàng đầu. Một là những người nghiên cứu về các thành phố cơng ty đã khơng tiến hành những kiểm định so sánh về thể chế phù hợp. Thay vì mơ tả và đánh giá tập hợp phương án chọn lựa về hợp đồng thực sự mà từ đĩ tổ chức thành phố cơng ty bắt buộc phải chọn, người ta lại so sánh các thành phố cơng ty với các thành phố khơng phải là thành phố cơng ty (noncompany towns). Điều chẳng cĩ gì đáng ngạc nhiên là, các thành phố cơng ty đạt kết quả yếu kém khi so sánh như thế. Tuy nhiên, vì sự so sánh như thế là khơng phù hợp về mặt hoạt động, nên so sánh như thế hồn tồn khơng giúp ích gì cho việc hiểu biết các vấn đề khĩ khăn về tổ chức mà thành phố cơng ty phải đương đầu. Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển Bài đọc Chương 1 Kinh tế học về Chi phí Giao dịch Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh 21 Khả năng thứ hai là, đặc biệt trong bối cảnh tổ chức thị trường lao động, tồn bộ quá trình thiết lập hợp đồng hiếm khi được hiện thực hĩa. Các thành phố cơng ty chắc sẽ ít đáng ghét hơn rất nhiều nếu chúng được thật sự tổ chức phù hợp với các nguyên tắc về thiết lập hợp đồng hiệu quả. Nhưng cửa hàng bách hĩa của cơng ty nào từng được tổ chức như một hợp tác xã? Một vấn đề khĩ khăn kinh niên của việc tổ chức thị trường lao động là các cơng nhân và gia đình của họ đều là những người lạc quan khơng thể kìm nén được. Họ bị đánh lừa bởi những sự bảo đảm về thiện ý mơ hồ, bởi những lời hứa hẹn khơng thể cưỡng chế thực thi về mặt pháp lý, và bởi niềm hy vọng sẽ cĩ được cuộc sống tốt đẹp của chính họ. Tồn bộ quá trình mặc cả kiên quyết khơng bao giờ xảy ra hay, nếu nĩ xảy ra, đều quá trể. Như thế, việc đánh giá khách quan những rủi ro về việc làm lẽ ra phải đi trước bất cứ thỏa thuận về việc làm nào lại chỉ xảy ra sau khi bị thất vọng. “Những yêu cầu” địi bồi thường thiệt hại trong những tình huống đĩ cĩ khuynh hướng được xem là một sự hù dọa – dựa trên, như sự thực xảy ra, sự yếu kém. Tổ chức tập thể cĩ thể hữu ích, nhưng tổ chức tập thể kéo theo sự đấu tranh. Những sự dàn xếp sau đĩ cĩ thể chặn đứng sự “mất máu” chứ khơng cĩ tác dụng “tiếp máu”. Tơi cĩ ý kiến rằng cả hai yếu tố điều gĩp phần làm cho các thành phố cơng ty bị đánh giá thấp. Tuy nhiên, như đã phát biểu từ đầu, cuốn sách này khơng cố gắng xử lý tồn diện tất cả các yếu tố liên quan. Thay vào đĩ, tơi luơn giả định rằng các bên tham gia hợp đồng đều cứng rắn và rằng những ảnh hưởng của các hợp đồng thay thế khác nhau đều được hiểu bằng trực giác, nếu khơng nĩi là được xem xét xuyên suốt hồn tồn. Điều này thường mang lại những hiểu biết sâu sắc, nhưng khơng phải khơng tốn chi phí. Những sự bỏ sĩt hay những biến dạng đơi khi xảy ra. Tơi tin rằng những chi phí như thế kém nghiêm trọng khi những thơng lệ thiết lập hợp đồng thương mại (bao gồm sự liên kết dọc và các cấu trúc quản trị bên trong hỗ trợ) được xem xét lại so với khi sự tổ chức thị trường lao động được nghiên cứu. Trong bất cứ trường hợp nào, tơi nhấn mạnh đến những đặc điểm về chi phí giao dịch mà trước đây đã bị bỏ qua là cĩ ý định bù đắp cho sự mất cân bằng trước đây. Tơi hồn tồn đồng ý rằng việc thiết lập hợp đồng phức tạp sẽ được hiểu rõ hơn khi được xem xét trên nhiều quan điểm cĩ trọng tâm rõ ràng. 6. Một số ứng dụng Những ứng dụng của kinh tế học về chi phí giao dịch phác thảo ở đây sẽ được phát triển rộng hơn trong các chương sau. Chủ đích chỉ đơn thuần cổ vũ cho nhận định rằng kinh tế học về chi phí giao dịch liên hệ với nhiều trong số các vấn đề hết sức hấp dẫn đối với kinh tế học vi mơ ứng dụng. 6.1 Những Biện pháp Hạn chế Thị trường dọc Trong khi trước kia người ta thường tiếp cận các biện pháp hạn chế về địa bàn hay hạn chế về khách hàng và các hình thức liên quan về thiết lập hợp đồng khơng thơng thường cĩ lẽ như là chống lại cạnh tranh, thì kinh tế học về chi phí giao dịch hiện nay duy trì giả định cĩ thể bác bỏ rằng những thơng lệ thực hành như thế cĩ mục đích bảo vệ an tồn cho các giao dịch. Giản đồ về thiết lập hợp đồng trong phần 4 cho thấy rằng các hãng mà trong đĩ các tài sản chuyên dụng bị đặt vào tình trạng rủi ro (k>0) cĩ động cơ khuyến khích nghĩ ra cấu trúc quản trị cĩ tính bảo vệ (S>0), bằng cách đĩ sẽ nằm ở điểm nút C. Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển Bài đọc Chương 1 Kinh tế học về Chi phí Giao dịch Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh 22 Nhiều thơng lệ thực hành khơng thơng thường, trong số đĩ các biện pháp hạn chế về địa bàn và về khách hàng là các thí dụ, đáp ứng một cách chính xác mục đích này. Như thế, giả sử một hãng phát triển được một hàng hĩa hay dịch vụ đặc biệt và phân phối hàng hĩa hay dịch vụ này thơng qua những người được nhượng quyền kinh tiêu (franchisees). Giả định thêm rằng động cơ xúc tiến hàng hĩa hay dịch vụ này cĩ những ngoại tác: Một số người được nhượng quyền kinh tiêu cĩ thể cố gắng xài chùa các nỗ lực xúc tiến của những người khác; hoặc những người được nhượng quyền kinh tiêu phục vụ nhĩm dân cư di động cĩ thể cắt giảm chi phí, cho phép chất lượng xuống cấp, và chuyển hiệu ứng về tiếng tăm lên cả hệ thống. Như thế, những người cấp nhượng quyền kinh tiêu (franchisors) cĩ động cơ khuyến khích mở rộng tầm ảnh hưởng của mình vượt quá quyết định cấp nhượng quyền kinh tiêu ban đầu để bao gồm các biện pháp hạn chế đối với điều kiện cung cấp. Mặc dù điều đĩ cĩ thể hiển nhiên, nhưng khơng phải luơn luơn như thế. Hãy xét lập trường của chính phủ khi thảo luận về vụ kiện Schwinn trước Tịa án Tối cao: Một “qui phạm pháp luật xử lý các nhà sản xuất chế tạo đảm nhiệm chức năng phân phối một cách khoan dung hơn so với những nhà sản xuất chế tạo áp đặt các hạn chế đối với các nhà phân phối độc lập chỉ đơn thuần phản ánh sự thật rằng, mặc dù sự liên kết (sự hợp nhất) về phân phối đơi khi đem lại lợi ích cho nền kinh tế bằng cách dẫn đến tiết kiệm chi phí, nhưng những thỏa thuận duy trì giá bán lẻ hay áp đặt những biện pháp hạn chế về địa bàn trong thời hạn hữu hạn hay những kiểu hạn chế về cửa hàng liên quan ở đây chưa bao giờ được chứng tỏ là tạo ra những lợi ích cho nền kinh tế tương đương”.31 Sự ưu tiên rõ ràng đối với các phương thức tổ chức nội bộ so với phương thức tổ chức theo thị trường phù hợp với mối bận tâm thịnh hành lúc đĩ về các đặc điểm cơng nghệ và việc khơng quan tâm đến các lợi ích của các biện pháp bảo vệ an tồn theo hợp đồng.32 Xét theo giản đồ thiết lập hợp đồng được trình bày trong Hình 1-2, chính phủ giả định một cách ngầm ẩn rằng tất cả các giao dịch mua bán đều thuộc loại nằm ở điểm nút A – do đĩ, bất cứ nỗ lực nào nhằm áp đặt các biện pháp hạn chế đều được cho là chống cạnh tranh. 6.2 Sự Phân biệt Đối xử về Giá cả Đạo luật Robinson – Patman được giải thích như là một nỗ lực “nhằm khơng cho những người mua lớn được hưởng [các khoản bớt giá] ngoại trừ trong chừng mực mức giá thấp hơn cĩ thể được biện minh là chính đáng bởi lý do về chi phí giảm của người bán nhờ sản xuất, giao hàng, hay bán với số lượng lớn, hoặc bởi lý do về nỗ lực theo thiện ý của người bán nhằm thỏa mãn mức giá thấp ngang bằng của đối thủ cạnh tranh. Một lần nữa, điều này giả định một giao dịch ở điểm nút A. Tuy nhiên, nếu người bán hoạt động trên nhánh k>0 và đang bán cho những người mua, mà một người mua trong số đĩ cung cấp một biện pháp bảo vệ an tồn theo hợp đồng trong khi người mua khác từ chối, thật là khơng thực tế khi kỳ vọng rằng sản phẩm sẽ được bán cho cả hai người mua nĩi trên với giá đồng nhất. Thay vào đĩ, người mua ở điểm nút B phải trả một mức trội giá )ˆ( pp > để thể hiện sự từ chối biện pháp an tồn chống lại rủi ro. Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển Bài đọc Chương 1 Kinh tế học về Chi phí Giao dịch Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh 23 6.3 Qui định điều tiết / Nới lỏng qui định điều tiết Việc cung cấp của nhà độc quyền cĩ hiệu quả ở đâu lợi thế kinh tế nhờ qui mơ lớn so với độ lớn của thị trường. Nhưng, như Friedman than vãn, “Thật đáng tiếc là khơng cĩ giải pháp tốt cho độc quyền kỹ thuật. Chỉ cĩ sự chọn lựa giữa ba điều tai hại: độc quyền tư nhân khơng bị điều tiết, độc quyền tư nhân được nhà nước điều tiết, và hoạt động của chính phủ” (1962, trang 128). Friedman mơ tả đặc trưng của độc quyền tư nhân khơng bị điều tiết như là một điều tai hại bởi vì ơng đã giả định rằng quyền sở hữu độc quyền tư nhân dẫn đến sự định giá dựa trên những điều kiện độc quyền. Tuy nhiên, như Demsetz (1968b), Stigler (1968), và Posner (1972) đã lập luận sau đĩ, người ta cĩ thể tránh được một kết cục về giá độc quyền bằng cách sử dụng phương thức đấu thầu tiền suy (ex ante) để cấp nhượng quyền kinh tiêu độc quyền cho hãng nào đề nghị cung cấp sản phẩm theo những điều khoản tốt nhất. Demsetz đưa ra phương thức đấu thầu nhượng quyền kinh tiêu cho lập luận độc quyền tự nhiên bằng cách cởi bỏ “những điều phức tạp khơng liên quan” – như khả năng lâu bền của thiết bị và tình trạng khơng chắc chắn (1968b, trang 57). Stigler khẳng định rằng “các khách hàng cĩ thể bán đấu giá quyền bán điện, bằng cách sử dụng nhà nước như một cơng cụ điều khiển cuộc bán đấu giá . . .. Cuộc bán đấu giá . . . gồm cĩ [những giá đặt mua nhượng quyền kinh tiêu] để bán rẻ (1968, trang 19). Posner đồng ý và cho rằng đấu thầu nhượng quyền kinh tiêu là một phương cách hiệu nghiệm để cấp và vận hành những nhượng quyền kinh tiêu TV cáp. Kinh tế học về chi phí giao dịch cơng nhận giá trị của lập luận nĩi trên, nhưng nhấn mạnh rằng phải xem xét những đặc điểm về thiết lập hợp đồng cả giai đoạn tiền suy lẫn giai đoạn hậu suy. Chỉ khi cạnh tranh cĩ hiệu quả ở cả hai giai đoạn thì lập luận về đấu thầu nhượng quyền kinh tiêu mới được chấp nhận. Những thuộc tính của hàng hĩa hay dịch vụ sẽ được nhượng quyền kinh tiêu là cốt yếu đối với sự đánh giá này. Đặc biệt, nếu hàng hĩa và dịch vụ sẽ được cung cấp trong tình trạng khơng chắc chắn và nếu cĩ địi hỏi các đầu tư đáng kể vào các tài sản chuyên dụng, thì sự hiệu nghiệm của phương thức đấu thầu nhượng quyền kinh tiêu cịn rất bấp bênh. Quả thực, việc thực hiện kế hoạch đấu thầu nhượng quyền kinh tiêu trong những tình huống đĩ thực chất là địi hỏi phát triển dần dần một bộ máy quản lý hành chính mà chủ yếu chỉ khác trên danh nghĩa chứ khơng phải khác loại với loại bộ máy gắn với qui định về suất sinh lợi. Điều sơ đẳng là một sự thay đổi trên danh nghĩa thiếu ý nghĩa so sánh về thể chế. Tuy nhiên, điều này khơng gợi ý rằng việc đấu thầu nhượng quyền kinh tiêu đối với các hàng hĩa và dịch vụ được cung cấp trong các điều kiện chi phí giảm dần là khơng bao giờ khả thi hay hàm ý rằng người ta khơng bao giờ cĩ thể thay thế qui định vẫn cịn tồn tại và quyền sở hữu cơng bằng việc đấu thầu nhượng quyền kinh tiêu mà được những khoản lợi rịng. Những thí dụ bao gồm các cơng ty hàng khơng dân dụng địa phương và, cĩ thể, hoạt động giao nhận theo đường bưu điện. Người thắng thầu đối với mỗi hoạt động nĩi trên cĩ thể được thay thế mà khơng gây ra những vấn đề khĩ khăn nghiêm trọng về định giá tài sản, bởi vì nhà máy cơ sở (các ga hành khách ở sân bay, bưu điện, nhà kho và v.v) cĩ thể được sở hữu bởi chính phủ, và các tài sản khác (máy bay, xe tải, và những tài sản tương tự) sẽ cĩ thị trường hàng hĩa máy mĩc đã qua sử dụng hoạt động tích cực. Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển Bài đọc Chương 1 Kinh tế học về Chi phí Giao dịch Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh 24 Vì thế cho nên, khơng phải là việc đấu thầu nhượng quyền kinh tiêu hồn tồn thiếu giá trị. Trái lại, đấu thầu nhượng quyền kinh tiêu là một đề xuất rất giàu trí tưởng tượng. Tuy nhiên, kinh tế học về chi phí giao dịch khẳng định rằng tất cả các kế hoạch về thiết lập hợp đồng – trong đĩ đấu thầu nhượng quyền kinh tiêu để cĩ độc quyền tự nhiên là một kế hoạch – cần phải được xem xét theo cách phân tích vi mơ và được đánh giá theo cách thức so sánh về thể chế. 7. Những Nhận xét Kết luận Kinh tế học về chi phí giao dịch dựa vào và phát triển những nhận định sau đây: 1. Giao dịch là đơn vị phân tích cơ bản. 2. Bất cứ vấn đề nào cĩ thể được trực tiếp hay gián tiếp đặt thành một vấn đề về thiết lập hợp đồng đều cĩ thể được điều nghiên một cách hữu ích xét theo việc tiết kiệm chi phí giao dịch. 3. Lợi thế kinh tế do chi phí giao dịch được hiện thực hĩa bằng cách gán các giao dịch (vốn cĩ các thuộc tính khác nhau) với các cấu trúc quản trị (vốn là những khung tổ chức mà trong khung này tính tồn vẹn của quan hệ hợp đồng được quyết định) theo một cách thức phân biệt sáng suốt. Vì vậy: a. Cần phải nhận dạng các thuộc tính xác định của các giao dịch. b. Cần phải mơ tả các thuộc tính thích nghi và động cơ khuyến khích của các cấu trúc quản trị thay thế khác nhau. 4. Mặc dù phân tích cận biên đơi khi được sử dụng, nhưng việc đưa vào áp dụng kinh tế học về chi phí giao dịch địi hỏi sự đánh giá so sánh về thể chế đối với các thể chế riêng biệt cĩ khả năng thay thế lẫn nhau – trong số các giải pháp này, việc thiết lập hợp đồng thị trường cổ điển nằm ở một cực; tổ chức theo tầng nấc tập trung nằm ở cực kia; và các phương thức hỗn hợp về tổ chức hãng và thị trường nằm ở khoảng giữa. 5. Bất cứ nỗ lực nào nhằm xử lý một cách nghiêm túc việc nghiên cứu tổ chức kinh tế đều phải chấp nhận những ảnh hưởng kết hợp của tính duy lý hạn chế và chủ nghĩa cơ hội cùng với điều kiện về tính chuyên dụng của tài sản. Về điểm cuối cùng này, hãy lưu ý rằng những khác biệt chủ yếu trong bốn khái niệm về hợp đồng được thảo luận trong phần nội dung chính nĩi trên đều cĩ thể bắt nguồn từ những biến thể trong một hay nhiều hơn một điều kiện trong ba điều kiện nĩi trên. Như thế, hợp đồng như là việc lập kế hoạch tiền suy tồn diện và hợp đồng như là sự hứa hẹn, cả hai đều đưa ra những giả định dũng cảm về bản chất con người – việc thiếu vắng tính duy lý hạn chế được dành vai trị nổi bật bởi một loại (lập kế hoạch); việc khơng cĩ chủ nghĩa cơ hội được giả định bởi loại kia (sự hứa hẹn). Ngược lại, các khái niệm hợp đồng như là sự cạnh tranh và hợp đồng như là sự quản trị đưa ra những địi hỏi kém nghiêm ngặt hơn về các khía cạnh về hành vi. Cả hai đều điều chỉnh cho thích ứng và/hoặc đưa ra qui định rõ ràng về những giới hạn đối với tính hợp lý và những mối nguy hiểm của chủ nghĩa cơ hội. Như thế, chính điều kiện về tính chuyên dụng của tài sản phân biệt các mơ hình thiết lập hợp đồng cạnh tranh và theo sự quản trị. Hợp đồng như là sự cạnh tranh hoạt động tốt ở đâu tính chuyên dụng của tài sản khơng đáng kể. Đây là một điều kiện phổ Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển Bài đọc Chương 1 Kinh tế học về Chi phí Giao dịch Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh 25 biến, vì thế ứng dụng của mơ hình cạnh tranh thật rộng. Tuy nhiên, khơng phải tất cả đầu tư đều cĩ thể bố trí lại ở mức độ cao. Việc sử dụng mơ hình cạnh tranh ở bên ngồi những hồn cảnh mà nĩ phù hợp nhất cĩ thể và đơi khi là sai lầm. Trong khi mơ hình cạnh tranh của các thị trường đã được phát triển đến mức độ tinh vi, thì những khĩ khăn khĩ vượt qua đi kèm với việc thiết lập hợp đồng trong bối cảnh những đầu tư khơng thể bố trí lại chỉ mới được xem xét kỹ lưỡng gần đây. Điều này là vì các nguồn gốc và tầm quan trọng về kinh tế của tính chuyên dụng của tài sản trước đây đã bị đánh giá thấp. Việc mở rộng lý thuyết về tổ chức kinh tế để xử lý tính chuyên dụng của tài sản đã và đang là mối bận tâm chính yếu trong chương trình nghị sự về nghiên cứu của Kinh tế học mới về thể chế. Cuốn sách này đưa ra và áp dụng cách tiếp cận theo trật tự tư đối với tổ chức kinh tế, trong đĩ khái niệm hợp đồng như là sự quản trị được dành vai trị nổi bật. Ghi chú: 1. Các đĩng gĩp đầu tiên bao gồm việc xây dựng lại khái niệm về các chi phí xã hội của Ronald Coase (năm 1960), bàn luận mở đường về các quyền sở hữu tài sản của Armen Alchian (năm 1961), cơng trình về các quyền sở hữu thơng tin về mặt kinh tế đầy rắc rối của Kenneth Arron (năm 1962, 1963), và sự đĩng gĩp vào lịch sử kinh doanh của Alfred Chandler con (năm 1962). 2. Nội dung này bao gồm những kết quả đầu tiên của tơi trong việc mơ tả lại vấn đề liên kết dọc dưới dạng chi phí giao dịch (Williamson, năm 1971) và các kết quả trong việc khái quát hĩa cách tiếp cận đĩ trong bối cảnh các thị trường và hệ thống phân cấp (Williamson, năm 1973); những bàn luận về xem “cơng ty tư bản chủ nghĩa cổ điển” dưới dạng một tổ chức theo nhĩm (năm 1972) của Armen Alchian và Harold Demsetz và những cơng trình liên quan của họ về các quyền sở hữu tài sản (năm 1973); việc đề xuất cách trình bày lại lịch sử kinh tế của Lance Davis và Douglass North (năm 1971); cơng trình quan trọng về các thị trường lao động của Peter Doeringer và Micheal Piore (năm 1971); và một bàn luận đầy khiêu khích về kinh tế học về tình trạng mất cân bằng của Janos Kornai (năm 1971). 3. Vài điều trong nghiên cứu này được mơ tả trong chương đầu tiên của quyển “các Thị trường và các Hệ thống Phân cấp) (năm 1975), cĩ tựa đề “Theo hướng Tân Kinh tế học về thể chế”. Hội nghị về “Kinh tế học về Tổ chức Bên trong” được tổ chức tại Đại học Pennsylvania vào năm 1974 (tài liệu chính thức từ hội nghị này được cơng bố vào năm 1975 và 1976 trong Tập san Kinh tế học Bell) đã giúp xác định lại chương trình nghiên cứu. Nhiều bài báo trong tập san Tổ chức và Cách Ứng xử Kinh tế, lần đầu tiên xuất bản vào năm 1980, là theo tinh thần Tân Thể chế. Để biết những bài tường thuật và bài viết mới đây cho tài liệu này, hãy đọc Tập san Kinh tế học Lý thuyết và Thể chế số ra tháng Ba năm 1984 và sách đọc sắp xuất bản do Louis Putterman và Victor Goldberg biên soạn. 4. Các ngoại lệ quan trọng đối với truyền thống này – tuy nhiên lại thường bị bỏ qua – là những bàn luận về các thơng lệ hạn chế kinh doanh của Lester Telser (năm 1965) và Lee Preston. Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển Bài đọc Chương 1 Kinh tế học về Chi phí Giao dịch Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh 26 5. Một quan điểm cân đối về các thể chế kinh tế của nền kinh tế thị trường sẽ đang chờ đợi sự quan tâm cĩ phối hợp hơn nữa đối với xã hội học về tổ chức kinh tế, vốn đang tiến triển một cách phù hợp. Để cĩ được cơng trình gần đây về loại này, hãy xem Harrison White (năm 1981) Martha Feldman và James March (năm 1981), Arthur Stinchcombe (năm 1983), Mark Granovetter (sắp xuất bản), và James Coleman (năm 1982). 6. Quả thực, việc tiết kiệm chi phí giao dịch là vấn đề chính yếu trong việc nghiên cứu tổ chức kinh tế một cách tổng quát hồn tồn – trong các nền kinh tế thị trường cũng như các nền kinh tế phi thị trường. 7. Các bàn luận của Herbert Simon về việc ra quyết định trong kinh tế học tập trung chủ yếu vào các đặc trưng mang tính cá thể hơn là thể chế của tổ chức kinh tế (năm 1959, 1962). 8. Phải thừa nhận rằng, tài liệu về sự thất bại của thị trường đã đề cập đến nhiều vấn đề liên quan. Nhưng hiếm khi nĩ đặt ra những vấn đề dưới dạng chi phí giao dịch. Do vậy, những nhận xét của Arrow tiên đốn là: “Tơi khẳng định rằng sự thất bại của thị trường là một phạm trù tổng quát hơn là ngoại tác … [ngồi ra], sự thất bại của thị trường khơng phải là tuyệt đối, tốt hơn nên xem xét một phạm trù rộng hơn, đĩ là phạm trù về chi phí giao dịch, vốn nhìn chung là cản trở và trong những trường hợp đặc biệt hồn tồn ngăn chận việc thành lập các thị trường (năm 1969, trang 48) 9. Stanley Robinson coi lời trích dẫn này là của Turner, năm 1968, N. Y. State Bar Association, Hội nghị chuyên đề chống độc quyền, trang 29. 10. Marc Galanter đề cập chi tiết như sau: “Khả năng thay đổi nhiều của các sở thích và của các tình huống, so sánh với một số nhỏ những điều mà các quy tắc chính thức cĩ thể xét đến … và việc giảm ý nghĩa trong khi chuyển tranh chấp thành các phạm trù chuyên mơn cho thấy những hạn chế về khả năng đáng mong muốn của các kết cục phù hợp với những quy tắc chính thức (năm 1981, trang 4) 11. Xem “Phần mở đầu”, mục 1.2 12. Các chi phí giao dịch hậu suy (ex post) liên quan đến, nhưng khác biệt một cách rõ ràng với, các chi phí mà Michael Jensen và William Meckling gọi là các chi phí ủy quyền - tác nghiệp. Các chi phí ủy quyền – tác nghiệp theo định nghĩa của họ là tổng của “(1) các chi tiêu về giám sát của người ủy quyền (principal), (2) những chi tiêu về cam kết của người thừa hành (agent) , và (3) phần mất mát cịn lại” (1976, trang 308) – thành phần cuối này là một là một loại rất rộng. 13. Xem Mark Granovetter (năm 1983) để cĩ được phần thảo luận về tầm quan trọng của sự gắn chặt vào bối cạnh xã hội. Ngồi ra, xem Douglass North (năm 1981). 14. Hiểu biết trực quan này tương tự với điều mà Michael Spence diễn tả trong lời phỏng đốn của ơng rằng các lập luận về rào cản gia nhập sẽ nhường chỗ cho các thị trường cĩ thể tranh giành trong dài hạn (1983, trang 1988). Mặc dù đối với Spencer, dài hạn cĩ lẽ chỉ là hơn năm năm hay mười năm, nhưng một số hiện tượng cĩ tính tiến hĩa mà tơi quan tâm cịn cĩ tầm thời gian nửa thế kỷ. Nĩi cách khác là tơi đồng ý với sự chọn lọc dạng yếu chứ khơng phải dạng mạnh, sự phân biệt là “theo nghĩa tương đối, người phù hợp hơn sẽ sống cịn, nhưng khơng cĩ lý Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển Bài đọc Chương 1 Kinh tế học về Chi phí Giao dịch Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh 27 do gì để giả sử rằng chúng phù hợp nhất theo nghĩa tuyệt đơí” (Simon, 1983, trang 69; nhấn mạnh ở nguyên bản). 15. Lập luận về thế lực “chính” áp dụng cho việc bán các hàng hĩa bổ trợ ở thị trường hạ nguồn. Trường phái Chicago khẳng định rằng sự ràng buộc (như việc bán kèm) trong những tình huống này khơng thể mở rộng sức mạnh độc quyền mà chỉ biểu hiện nỗ lực thực hiện sự phân biệt giá cả: “nếu khơng cĩ sự phân biệt giá cả, nhà độc quyền sẽ khơng nhận được lợi nhuận độc quyền bổ sung từ việc chi phối hồn tồn một sản phẩm bổ trợ” (Posner, trang 173). Đánh giá này được thừa nhận rộng rãi. Timothy Brennan và Sheldon Kimmel kể từ đĩ đã xem xét một trường hợp tuy đặc biệt nhưng thú vị, trong đĩ mối ràng buộc (tie) xảy ra khơng phải ở thị trường hạ nguồn mà ở thị trường thượng nguồn. Họ cho thấy rằng mối ràng buộc ở đây cĩ thể ảnh hưởng đến độc quyền trên thị trường cấp hai nếu “lợi thế kinh tế nhờ phạm vi hay các điều kiện về cầu …[là] sao cho các nhà sản xuất khơng thể bán hàng cấp hai một cách cĩ lợi trừ khi họ bán cả hàng cấp một cho nhà độc quyền” (1983, trang 21). 16. Ví dụ, xem bản tĩm tắt hồ sơ amicus do Lawrence A. Sullivan chuẩn bị để giúp đỡ bên bị trong vụ kiện Cơng ty Monsanto chống lại Tập đồn Dịch vụ Spray-Rite (Spray-Rite Service Corporation) 17. Mặc dù quan điểm đa số trong vụ kiện Bệnh viện Jefferson Parish Quận số 2, chống lại Hyde (Jefferson Parish Hosp Dist. No.2 v Hyde) (44 CCH S.Ct. Bull., P.) đi đến kết quả đúng, nĩ cũng làm rối tung quan điểm này khi đề cập đến lý thuyết thế lực. 18. Xem Chương 14 19. Phải thừa nhận rằng, người ta cĩ thể tranh luận rằng việc phân biệt đối xử về giá là cĩ hiệu quả, vốn là bình thường nếu người ta cĩ thể thực hiện nĩ tại chi phí giao dịch bằng khơng và nếu các ảnh hưởng phân phối thu nhập được loại bỏ. Tuy nhiên, giả định chi phí giao dịch bằng khơng hiếm khi được biện minh là xác đáng, vì lý do này các đánh giá của xã hội và tư nhân về việc phân biệt đối xử về giá cĩ thể mang lại nhiều kết quả trái ngược (Williamson, năm 1975, trang 11-13). 20. Để biết cuộc khảo sát gần đây, hãy xem Louis De Alessi (năm 1983). Để biết cuộc khảo sát trước đây, hãy xem Eirik Furubotn và Steve Pejovich (năm 1974) 21. Để biết cuộc khảo sát gần đây, hãy xem Stanley Baiman (năm 1982) 22. Thảo luận gần đây về sự liên kết (sự hợp nhất) theo hàng dọc của Sanford Grossman và Oliver Hart minh họa cho cả hai nhận định này. Theo đĩ, họ xem quyền sở hữu tài sản là sự kiểm sốt đối với các quyền cịn lại: “Mỗi tài sản sẽ cĩ một sở hữu chủ duy nhất và sở hữu chủ đĩ cĩ quyền kiểm sốt tài sản này trong trường hợp một điều khoản [hợp đồng] bị thiếu” (1984, trang 7). Họ cịn nêu ý kiến rằng sở hữu chủ của tài sản vật chất “cĩ thể ra lệnh cho những người làm cơng trong nhà máy” sử dụng các tài sản này đúng theo những hướng dẫn của sở hữu chủ (1984, trang 17). Như thế, những khác biệt giữa tổ chức thị trường và sự kiên kết theo hàng dọc được qui cho là do những khác biệt về quyền sở hữu tài sản mà những khác biệt này phân biệt chúng. 23. Mervyn King mơ tả đặc trưng mơ hình Arrow – Debrew như sau: … các hàng hĩa được phân biệt khơng chỉ bởi những đặc điểm về vật lý và Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển Bài đọc Chương 1 Kinh tế học về Chi phí Giao dịch Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh 28 khơng gian của chúng, và bởi thời điểm hàng hĩa này cĩ sẵn, mà cịn bởi “hồn cảnh” (“trạng thái của thế giới”) mà trong đĩ hàng hĩa này được giao. Một “hồn cảnh” được xác định bằng cách gắn những giá trị cho tất cả các biến số khơng chắc chắn vốn liên quan đến nền kinh tế … và bao gồm một danh sách đầy đủ tất cả các biến số này. Các hồn cảnh này cĩ tính loại trừ lẫn nhau, và kết hợp lại chúng hình thành một tập hợp đầy đủ hồn tồn …Hiện nay các hàng hĩa được xác định như là tùy thuộc vào việc xảy ra các sự kiện nhất định, và hệ thống thị trường bao gồm các thị trường về tất cả các hàng hĩa tùy thuộc này. [1977, trang 128]. 24. Tài liệu về thiết kế cơ chế giả định rằng các bên tham gia hợp đồng cĩ năng lực nhận thức để khéo léo tạo ra các hợp đồng cĩ tính phức tạp khơng giới hạn. Nĩi theo ngơn ngữ của Chương 2, các bên trong hợp đồng cĩ tính duy lý hạn chế; hãy xem Bengt Holmstrom (1984). Tương phản với tài liệu về quyền sở hữu tài sản, cách tiếp cận thiết kế cơ chế cho rằng “bởi vì nghĩa vụ của mỗi bên đối với bên kia được xác định rõ một cách hồn tồn đối với mọi trạng thái của thiên nhiên, nên khơng cĩ các quyền kiểm sốt cịn lại đối với tài sản để cĩ thể được phân bổ” (Grossman và Hart, 1984, trang 7). Vì thế các hợp đồng phức tạp khơng đề cập đến các quyền cịn lại mà đề cập đến việc xác định các nghĩa vụ ngay từ đầu – qui định thích hợp đối với thơng tin riêng đã được thừa nhận. 25. Xem Baiman (năm 1982, trang 168) 26. Những khác biệt giữa kinh tế học về chi phí giao dịch và “lý thuyết về khả năng tranh giành” (Baumol, Panzer, và Willig, 1982) về khía cạnh tính chuyên dụng của tài sản thật đáng lưu ý. Cả hai cách tiếp cận này đối với việc nghiên cứu tổ chức kinh tế đều cơng nhận tầm quan trọng của tính chuyên dụng của tài sản, nhưng chúng nhìn tính chuyên dụng này từ hai đầu đối ngược của kính viễn vọng. Theo đĩ lý thuyết về khả năng tranh giành giảm tầm quan trọng của tính chuyên dụng của tài sản xuống thành khơng đáng kể, do đĩ việc nhập ngành chớp nhống thật dễ dàng. Ngược lại, kinh tế học về chi phí giao dịch phĩng đại điều kiện về tính chuyên dụng của tài sản. Sự hiện hữu của các tài sản lâu bền, chuyên biệt theo hãng được cho là phổ biến, và do đĩ việc nhập ngành chớp nhống thường khơng khả thi. 27. Giả định rằng cách thức sắp xếp của tịa án là hiệu quả trong một cơ chế cĩ tính duy lý hạn chế và chủ nghĩa cơ hội hiển nhiên là khơng cĩ lý do chính đáng, nhưng dù sao đây là một giả định được duy trì. 28. Mặc dầu tơi nhận ra rằng cách tiếp cận theo hợp đồng đối với sự liên kết theo hàng dọc mà tơi đã từng viết về cách tiếp cận này vào năm 1971 chắc hẳn cĩ những ứng dụng khác (bao gồm quy định và tổ chức thị trường lao động), nhưng tơi thật sự hầu như chẳng tưởng tượng ra rằng những phương thức thiết lập hợp đồng và quản trị cơng ty khơng thơng thường cũng cĩ thể được áp dụng cùng loại phân tích sau khi trình bày lại những vấn đề này dưới dạng hợp đồng. 29. Liệu những khuyết điểm của ba phương án đầu được mơ tả trong bài cĩ vượt trội các khuyết điểm của phương án (4) hay khơng, vấn đề này được để dành làm một bài tập cho người đọc. Những thỏa thuận về cho thuê được tạo thuận lợi bằng cách giả định rằng những người thuê nhà sẽ tiến hành việc chăm sĩc nhà cửa thỏa đáng, điều này địi hỏi phải đưa vào hợp đồng thuê những biện pháp ngăn cản những sự Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Tài chính Phát triển Bài đọc Chương 1 Kinh tế học về Chi phí Giao dịch Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh 29 lạm dụng mà cĩ thể được thực hiện để thỏa mãn các bên. Hãy xem Alchian (1984, trang 40) để biết phần thảo luận liên quan. 30. Một lần nữa, phần này được xem như một bài tập cho người đọc. 31. Bản tĩm tắt hồ sơ của Hoa Kỳ tại phần 58, vụ kiện Hoa Kỳ chống lại Arnold, Schwinn & Co., 388 U.S. 365 (năm 1967). 32. Phần bàn luận sâu sắc của Lester Telser về “các thơng lệ thương mại cĩ tính lạm dụng (năm 1965) nằm trong lĩnh vực cơng cộng nhưng đã khơng được chú ý. 33. FTC v Morton Salt Co., 334 U.S.37 (1948). Nhấn mạnh thêm Tài liệu gốc: Oliver E. Williamson, The Economic institutions of capitalism, 1985, Nhà xuất bản The Free Press. Bản dịch tíếng Việt do Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright thuộc Đại học kinh tế TPHCM biên soạn và thực hiện. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright chịu trách nhiệm về tính chính xác của việc dịch thuật. Trong trường hợp cĩ khác biệt thì tài liệu nguyên gốc sẽ được sử dụng làm căn cứ..

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfchiphigiaodich.pdf
Tài liệu liên quan